tiểu luận về tài nguyên nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.19 KB, 27 trang )

Đang xem: Tiểu luận về tài nguyên nước

TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI
MÔI TRƯỜNG NƯỚC
Mục lục
A/PHẦN MỞ ĐẦU
Nước là một nhân tố quan trọng cấu thành nên môi trường, quyết định sự tồn tại
và phát triển của mỗi quốc gia cũng như của cả hành tinh. Tài nguyên nước là
nguồn tài nguyên vừa hữu hạn, vừa vô hạn tuy nhiên hiện nay nguồn tài nguyên
thiên nhiên quý hiếm và quan trọng này đang phải đối mặt với nguy cơ ô nhiễm và
cạn kiệt. Nguy cơ thiếu nước, đặc biệt là nước ngọt và sạch là một hiểm họa lớn
đối với sự tồn vong của con người cũng như toàn bộ sự sống trên trái đất. Trong
những trong những năm qua, sự tăng nhanh về dân số và khai thác quá mức tài
nguyên nước, các tài nguyên đất và rừng đã làm suy kiệt nguồn nước, việc phát
triển đô thị và công nghiệp nhưng không có biện pháp quản lý chặt chẽ và xử lý
chất thải theo yêu cầu cũng đã làm ô nhiễm nguồn nước . Do đó con người cần
phải nhanh chóng có các biện pháp bảo vệ và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên
nước. Bảo vệ tài nguyên nước nay đã trở thành một trong các chính sách quan
trọng của Đảng và Nhà nước ta. Bằng những biện pháp và chính sách khác nhau,
Nhà nước ta đã và đang can thiệp mạnh mẽ và các hoạt động cả cá nhân và tổ chức
trong xã hội để bảo vệ tài nguyên nước, ngăn chặn gây ô nhiễm và suy thoái tài
nguyên nước. Vai trò to lớn của nước đối với đời sống con người cũng như tính
phức tạp của các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình khai thác, sử dụng, tác
động tới nước, tất yếu dẫn tới phải bảo vệ tài nguyên nước bằng pháp luật với
những quy định cụ thể về các nguồn nước và nghĩa vụ bảo vệ tài nguyên nước.Việc
bảo vệ tài nguyên nước, kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước bằng pháp
luật là một biện pháp quan trọng và đem lại hiệu quả cao, tuy nhiên vẫn còn một số
khó khăn trong việc triển khai và thực hiện. Chính vì vậy, với nội dung của bài tiêu
luận này mong muốn tìm hiểu thêm về những văn bản pháp luật hiện hành quy
định về việc kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước cũng như thực trạng
áp dụng những văn bản này ở Viêt Nam ta.
B/NỘI DUNG CHÍNH

1.Hiện trạng môi trường nước
1.1.Hịên trạng môi trường nước ở việt nam
a /tình trạng ô nhiễm nguồn nước mặt ở Việt Nam
Đầu tiên là về ô nhiễm biển.Điển hình như ở cảng Hải Phòng, bình quân hằng
năm có tới hơn 1.500 lượt tàu vận tải biển cập cảng Hải Phòng. Lượng dầu cặn qua
sử dụng trong hành trình vận tải của mỗi tàu khi đến cảng từ 5 m
3
đến 10 m
3
. Như
vậy, hàng nghìn m
3
dầu cặn qua sử dụng cùng với rác thải sinh hoạt của người dân
vạn chài và khách du lịch đã xả tự nhiên theo nhiều cách xuống biển.
Tiếp theo là tình trạng ô nhiễm mguồn nước ở một số con sông ở nước ta:
Nhìn chung chất lượng nước ở thượng lưu các con sông còn khá tốt, nhưng vùng
hạ lưu phần lớn đã bị ô nhiễm, có nơi ở mức nghiêm trọng. Môi trường nước mặt
(sông, ao, hồ) ở Hà Nội cũ, Hà Đông, Sơn Tây và các làng nghề của Hà Tây ô
nhiễm trầm trọng. Chất lượng nước suy giảm mạnh, nhiều chỉ tiêu như BOD,
COD, NH4, tổng N, tổng P cao hơn tiêu chuẩn cho phép nhiều lần
Theo bộ Tài nguyên – Môi trường, hầu hết các con sông thuộc nội thành Hà Nội
đều nhiễm khuẩn hữu cơ vượt gấp từ 3 tới 5 lần mức cho phép; đối với nước thải
sinh hoạt thì mức độ vượt tiêu chuẩn vượt tới hàng chục lần, thậm chí hàng trăm
lần
Các sông Tô Lịch, Kim Ngưu, sông Sét, sông Lừ của Hà Nội vốn là cảnh quan
thiên nhiên rất đẹp của Hà Nội, nay biến thành kênh thoát nước thải chưa được xử
lý, các chất ô nhiễm hữu cơ vượt quy chuẩn cho phép đối với nước loại B nhiều
lần, mặt nước biến thành màu đen, các khí NH3, CH4, H2S bốc mùi hôi rất khó
chịu.
Nhiều hồ của Hà Nội, trước đây cũng là cảnh quan thiên nhiên đặc sắc nay tiếp

tục bị ô nhiễm nặng. Ngay cả Hồ Tây, hàm lượng BOD đạt 4 – 25 mg/l. Hồ Bảy
Mẫu là 26 – 30mg/l, hồ Trúc Bạch 20 – 42mg/l.
Chất lượng nước sông Hồng đi qua Hà Nội, trước đây đạt loại A, trừ hàm lượng
chất lơ lửng (phù sa), nay hàm lượng BOD cực đại lên tới 10 – 16mg/l.
Nước sông Tích (Hà Tây) trước đây đạt tiêu chuẩn loại A, đến nay đã có một số
chỉ tiêu không đạt tiêu chuẩn loại A, như BOD = 8,3 (tiêu chuẩn A là £ 4 mg/l).
Chỉ còn sông Bùi là tương đối sạch, BOD xấp xỉ bằng 4 mg/l.
Sông Đồng Nai : Vùng hạ lưu (tính từ sau hồ Trị An đến điểm hợp lưu với sông
Sài Gòn), ô nhiễm hữu cơ chưa cao (DO = 4 -6 mg/l, BOD = 4 – 8 mg/l) nhưng hầu
như không đạt TCVN đối với nguồn loại A. Ô nhiễm vi sinh và dầu mỡ rõ rệt, ô
nhiễm kim loại nặng, phenol, PCB… chưa vượt tiêu chuẩn, nhiễm mặn không xảy
ra từ Long Bình đến thượng lưu. Vùng thượng lưu nước có chất lượng tốt, trừ khu
vực thành phố Đà Lạt đã bị ô nhiễm nặng do hàm lượng cao của các chất hữu cơ,
dinh dưỡng, vi sinh. Khả năng tự làm sạch của sông Đồng Nai khá tốt.
Sông Sài Gòn: Mức độ ô nhiễm là nghiêm trọng cả về hữu cơ (DO = 1,5 – 5,5
mg/l; BOD = 10 – 30 mg/l), dầu mỡ, vi sinh, không có điểm nào đạt TCVN đối với
nguồn loại A. Ô nhiễm cao nhất là ở vùng sông chảy qua trung tâm TP Hồ Chí
Minh. Ngoài ra, sông Sài Gòn còn bị axit hoá nặng do nước phèn ở đoạn Hốc Môn
– Củ Chi(pH=4,0-5,5). Từ năm 2007 đến nay, tình hình ô nhiễm tiếp tục diễn biến
phức tạp trên sông Sài Gòn – Đồng Nai, đặc biệt tại các trạm quan trắc nguồn nước
cấp cho thành phố như: Bến Củi, Bến Súc, Phú Cường, Hóa An Trong năm 2007,
độ pH tại các trạm Bến Súc, Thị Tính, Phú Cường dao động từ 5,61-5,82 không đạt
tiêu chuẩn cho phép (6-8,5). Hàm lượng DO (nồng độ oxy hòa tan) thấp hơn tiêu
chuẩn 1-1,7 lần, nồng độ coliform vượt tiêu chuẩn 3,5-31 lần. Đặc biệt trong năm
2007 ghi nhận có sự xuất hiện của dầu trong nước nguồn (tiêu chuẩn không cho
phép). Như vậy, so với năm 2006 hàm lượng DO tăng 1,2 lần, nồng độ dầu tăng
hai lần, coliform tăng 2-10 lần.
Chưa dừng lại ở đó, trong sáu tháng đầu năm 2009 ghi nhận nhiều chỉ tiêu ô nhiễm
tiếp tục gia tăng. Cụ thể như hàm lượng DO tại các trạm Bến Củi, Bến Súc, Phú
Cường và Hóa An tiếp tục tăng 1,02-1,08 lần. Nồng độ coliform tại trạm Phú

Cường và kênh N46 tiếp tục tăng 3,26-11,95 lần.
Sông Cầu: Chất lượng nước các sông thuộc lưu vực sông Cầu ngày càng xấu đi,
nhiều đoạn sông đã bị ô nhiễm tới mức báo động. Ô nhiễm cao nhất là đoạn sông
Cầu chảy qua địa phận thành phố Thái Nguyên, đặc biệt là tại các điểm thải của
Nhà máy Giấy Hoàng Văn Thụ, Khu Gang thép Thái Nguyên , chất lượng nước
không đạt cả tiêu chuẩn A và B. Tiếp đến là đoạn sông Cà Lồ, hạ lưu sông Công,
chất lượng nước không đạt tiêu chuẩn A và một số yếu tố không đạt tiêu chuẩn B.
Yếu tố gây ô nhiễm cao nhất là các chất hữu cơ, NO2- và dầu. Ô nhiễm nhất là
đoạn từ nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ tới cầu Gia Bảy, ôxy hòa tan đạt giá trị thấp
nhất (0,4 – 1,5 mg/l), BOD5, COD rất cao (>1000mg/l); Colifom ở một số nơi khá
cao, vượt quá tiêu chuẩn A tới hàng chục lần. Hàm lượng NO2 > 2,0 mg/l và dầu >
5,5 mg/l, vượt quá tiêu chuẩn B tới 20 lần.
Sông Nhuệ – sông Đáy: Theo thống kê của Bộ TN&MT, hệ thống sông Nhuê –
Đáy có 700 nguồn nước thải đổ vào với khối lượng 800.00m3/ngày. Chỉ riêng cụm
làng nghề dệt nhuộm tập trung ven quận Hà Đông: lụa Vạn Phúc, Xí nghiệp Len,
nhuộm in hoa Hà Đông. Sản phẩm chính là các mặt hàng từ tơ tằm sản xuất thủ
công và bán thủ công, sản lượng hàng năm 2,5 triệu mét. Quy trình sản xuất sử
dụng nhiều than đá, dầu mỡ, thuốc nhuộm, hóa chất và nước. Hằng ngày Vạn Phúc
thải ra khoảng 1.000m3 nước thải, chứa các tạp chất tự nhiên tách ra từ vải sợi,
chất bẩn, dầu, hợp chất chứa nitơ, péctin, hồ tinh bột, NaOH, H2SO4, HC… các
loại thuốc nhuộm, hóa chất trơ. Khoảng 30% thuốc nhuộm và 85 – 90% hóa chất
nằm lại trong nước thải chảy vào kênh mương và đổ trực tiếp ra sông Nhuệ.
Do sự phát triển nhanh chóng của các làng nghề, khu công nghiệp ở lưu vực sông
Nhuệ – Đáy, hai con sông này đã ô nhiễm nặng. Kết quả khảo sát và quan trắc cho
thấy, nguồn nước tại hai dòng sông trên không thể dùng để tưới tiêu cho nông
nghiệp (không đạt tiêu chuẩn B1). Hàng chục kênh mương trên hệ thống sông này
đã biến thành dòng nước chết, bốc mùi hôi tanh khó chịu. Nước ô nhiễm chảy đến
đâu, cá tôm chết nổi đến đó, cây trồng cũng héo rũ. Sản lượng nuôi trồng thủy sản
(đặc biệt là nuôi cá bè trên sông) trên hệ thống này đã bị giảm sút do vấn đề ô
nhiễm nguồn nước mặt. Điển hình là các vụ cá lồng chết hàng loạt vào năm 2002,

2003, 2005.
Sông Tô Lịch đã có dấu hiệu ô nhiễm kim loại nặng, vào mùa khô mức độ ô
nhiễm càng trở nên trầm trọng. Kết quả kiểm tra gần đây cho thấy lượng ôxy hòa
tan (DO) đạt rất thấp. Lượng ôxy hóa học trong nước vượt từ 7 tới 8 lần; ôxy sinh
học vượt 7 lần. Lượng khuẩn coliform trong nước cũng cao hơn tiêu chuẩn cho
phép nhiều lần. Nước ở sông Tô Lịch có màu đen, có váng, cặn lắng và có mùi
tanh. Nguyên nhân gây ô nhiễm ở sông Tô Lịch chính là tốc độ tăng dân cư quá
nhanh, nhiều nhà máy, xí nghiệp đã xả nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp
xuống sông. Chỉ với một đoạn ngắn từ đường Bưởi tới Cầu Giấy có hơn trăm cống
xả lớn, nhỏ đổ xuống con sông Tô Lịch.
Ngoài ra, ô nhiễm nước ở các sông hồ ở nội thành Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh, Tp Đà
Nẵng đang ở mức trầm trọng, các chỉ tiêu quan trắc đều vượt quá tiêu chuẩn cho
phép nhiều lần, thậm chí hàng trăm lần.
b/ Hiện trạng ô nhiễm nguồn nước ngầm
Nước ngầm ở một số vùng, đặc biệt là các khu công nghiệp và đô thị có nguy cơ
cạn kiệt vào mùa khô và ở một số nơi đã có dấu hiệu bị ô nhiễm. Ở nước ta, nước
sử dụng cho sinh hoạt là 70 % nước mặt và 30 % nước ngầm. Tuy nhiên, trong
những năm gần đây do khai thác quá mức nên mạch nước ngầm tại một số thành
phố lớn như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh đã bị ô nhiễm các chất hữu cơ và gây sụt
lún. Ở các vùng ven biển nước giếng khoan đã hóa mặn và tình trạng nhiễm mặn
ngày càng gia tăng.
Theo các tài liệu quan trắc mực nước từ năm 2000 đến nay, mực nước trong các
tầng chứa nước ngày càng hạ thấp, đây là nguy cơ cạn kiệt tầng chứa nước. Mực
nước hạ thấp kéo theo sự xâm nhập mặn và các chất ô nhiễm vào tầng chứa nước,
nguy cơ sụt lún mặt đất do tầng chứa nước bị tháo khô. Nước ngầm ở các trạm
quan trắc Trường Thọ, Linh Trung bị nhiễm sắt vuợt tiêu chuẩn cho phép và cao
hơn 6 tháng đầu năm 2005. Nghiêm trọng hơn, mực nước ngầm ở tầng nông tại
trạm Bình Hưng đã bị nhiễm phèn nặng. Cũng theo kết quả khảo sát của Liên đoàn
Địa chất thủy văn – Địa chất công trình miền Bắc mới đây, độ ôxy hóa trong nước
giếng khoan trên địa bàn Hà Nội đã vượt nhiều lần chỉ tiêu cho phép, nhiều nơi cao

hơn từ 20 đến 30 lần. Điển hình là xã Pháp Vân, phường Tương Mai, phường
Trung Hòa, xã Tây Mỗ, xã Trung Văn Hiện bản đồ nguồn nước ngầm nhiễm bẩn
đã lan rộng trên toàn thành phố.
Nhiều hộ dân khoan giếng bằng những thiết bị không đúng tiêu chuẩn, nước bẩn
trên bề mặt thấm theo đường khoan đi vào lòng đất. Cùng với đó là rác thải công
nghiệp, rác thải ở nhiều khu dân cư không được thu gom và xử lý, đã tác động xấu
tới nguồn nước, làm ô nhiễm nước ngầm.
Hiện tượng suy giảm chất lượng nước cũng khá rõ, đặc biệt là ô nhiễm Asen và vật
chất hữu cơ, các hợp chất nitơ. Các kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng, sự nâng cao
của nồng độ Asen trong nguồn nước ngầm không chỉ ở Hà Nội mà còn có ở các
nơi khác như Hà Nam, TP.HCM… Các thành phần hóa học khác như NH4, NO2
cũng có sự biến động rõ rệt.
Với các đô thị miền Trung, nước ngầm được khai thác ở độ sâu nhỏ (khoảng 10
-25m), lớp phủ bề mặt mỏng nên dễ bị ô nhiễm. Qua khảo sát, phần lớn các nguồn
nước này đều bị nhiễm vi sinh và một số chỉ tiêu vi lượng vượt mức cho phép
nhiều lần. Đáng quan ngại là tình trạng xuất hiện hàm lượng thủy ngân vượt quá
giới hạn cho phép có nguyên nhân từ quá trình khai khoáng, sản xuất công nghiệp
và phân bón…
Về cơ bản nguồn nước ngầm tự nhiên ở Hà Nội là sạch dù lượng sắt và mangan
trong nước ở Hà Nội khá lớn. Điều quan tâm nhất hiện nay về mặt nước nhiễm bẩn
ở Hà Nội là hàm lượng asen (còn gọi là thạch tín), amôni (NH4), sinh ra từ các vật
chất hữu cơ, xác động vật, chất thải lỏng và rắn…, trong nước quá cao. Những
điểm ô nhiễm asen đáng lưu ý mà Liên đoàn ghi nhận được là ở Đan Phượng (Hà
Tây cũ) với mức 0,4 microgram/lít – cao hơn 40 lần so với tiêu chuẩn cho phép
(tiêu chuẩn cho phép là 0,01 microgram/lít). Một số khu vực ở Hà Nội cũng bị xếp
vào diện phải báo động như khu vực Nam Dư thuộc huyện Thanh Trì với những
điểm ô nhiễm Hoàng Mai, Quỳnh Lôi…ở mức 0,1 đến 0,2 microgram/lít (cao gấp
10 đến 20 lần so với mức cho phép). Một số điểm khác mức ô nhiễm chừng 10 lần
so với mức cho phép cũng được ghi nhận như khu vực ven sông Hồng. Khu vực
phía Bắc Hà Nội không có ghi nhận hiện tượng nhiễm asen.

Nhìn chung ô nhiễm nguồn nước ngầm do nhiễm mặm,nhiễm arsennic, nhiễm nhu
cầu oxy hóa học (COD) và nhu cầu oxy sinh học (BOD5 ) và Ô nhiễm hóa chất
bảo vệ thực vật
1.2.Hiện trạng môi trường nước trên thế giới
Quá trình đô thị hóa, hoạt động nông nghiệp, công nghiệp và biến đổi khí hậu
càng ngày càng gây áp lực nặng nề lên khối lượng và chất lượng nguồn nước. Theo
Viện Nước quốc tế Xtốc-khôm (SIWI), cơ quan tổ chức sự kiện này, tình trạng ô
nhiễm nguồn nước đang gia tăng ở mọi nơi trên Trái đất, với trung bình mỗi ngày
khoảng hai triệu tấn chất thải sinh hoạt bị đổ ra sông, hồ và biển. Nghiêm trọng
nhất là tại các nước đang phát triển, có đến 70% lượng chất thải công nghiệp
không qua xử lý bị trực tiếp đổ vào các nguồn nước, khiến nguồn nước cho sinh
hoạt con người bị ô nhiễm nghiêm trọng. Đại diện nhiều nước châu Phi báo động
về thảm cảnh khan hiếm nước tại lục địa này. Nguồn nước ở đây vừa rất thiếu, lại
rất thừa và bị ô nhiễm nặng nề do rác thải và sử dụng các chất hóa học vô tội vạ.
trung bình mỗi ngày trên trái đất có khoảng 2 tỷ tấn nước thải và 70% lượng chất
thải công nghiệp không qua xử lý đổ trực tiếp vào các nguồn nước sinh hoạt. Trên
toàn thế giới, tình trạng ô nhiễm sông ngòi là khá nghiêm trọng, những dòng sông
bị ô nhiễm nặng nề nhất là những dòng sông chảy qua các khu vực dân cư đông
đúc vốn thường tập trung ở khu vực cửa sông. Những khu vực đầu nguồn như
thượng nguồn sông Amazon chính là nơi có mức độ ô nhiễm nước thấp nhất Nhiều
vùng biển trên thế giới đang bị ô nhiễm nghiêm trọng, đe dọa đến sự sống của các
loài động vật biển mà chủ yếu là nguồn ô nhiễm từ đất liền và giao thông vận tải
biển gây nên.
Anh Quốc chẳng hạn: Ðầu thế kỷ 19, sông Tamise rất sạch. Nó trở thành ống
cống lộ thiên vào giữa thế kỷ này. Các sông khác cũng có tình trạng tương tự trước
khi người ta đưa ra các biện pháp bảo vệ nghiêm ngặt.
Nước Pháp rộng hơn, kỹ nghệ phân tán và nhiều sông lớn, nhưng vấn đề
cũng không khác bao nhiêu. Dân Paris còn uống nước sông Seine đến cuối thế kỷ
18. Từ đó vấn đề đổi khác: các sông lớn và nước ngầm nhiều nơi không còn dùng
làm nước sinh hoạt được nữa, 5.000 km sông của Pháp bị ô nhiễm mãn tính. Sông

Rhin chảy qua vùng kỹ nghệ hóa mạnh, khu vực có hơn 40 triệu người, là nạn nhân
của nhiều tai nạn (như cháy nhà máy thuốc Sandoz ở Bâle năm 1986) thêm vào các
nguồn ô nhiễm thường xuyên.
Ở Hoa Kỳ tình trạng thảm thương ở bờ phía đông cũng như nhiều vùng khác.
Vùng Ðại hồ bị ô nhiễm nặng, trong đó hồ Erie, Ontario đặc biệt nghiêm trọng.
Ở ngay tại Trung Quốc, hàng năm lượng chất thải và nước thải công nghiệp thải ra
ở các thành phố và thị trấn của Trung Quốc tăng từ 23,9 tỷ m
3
trong năm 1980 lên
73,1 tỷ m
3
trong năm 2006. Một lượng lớn nước thải chưa qua xử lí vẫn được thải
vào các sông. Hậu quả là, hầu hết nước ở các sông, hồ ngày càng trở nên ô nhiễm.
Dựa trên việc đánh giá 140.000 km sông dọc đất nước Trung Quốc trong năm
2006, chất lượng nước của 41,7% chiều dài sông xếp ở loại 4 hoặc thậm chí thấp
hơn và 21,8% dưới loại 5.
1.3. Đánh giá tác động của thế giới đến môi trường nước ở Việt Nam
Thông qua tác động của biến đổi khí hậu điển hình là sự nóng lên toan cầu:
Sự gia tăng các hoạt động tạo ra các chất thải khí nhà kính, các hoạt động khai
thác quá mức các bể hấp thụ khí nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái
biển, ven bờ và đất liền khác. Nhằm hạn chế sự biến đổi khí hậu, Nghị định thư
Kyoto nhằm hạn chế và ổn định sáu loại khí nhà kính chủ yếu bao gồm: CO2,
CH4, N2O, HFCs, PFCs và SF6. CO2 phát thải khi đốt cháy nhiên liệu hóa thạch
(than, dầu, khí) và là nguồn khí nhà kính chủ yếu do con người gây ra trong khí
quyển. CO2 cũng sinh ra từ các hoạt động công nghiệp như sản xuất xi măng và
cán thép.
CH4 sinh ra từ các bãi rác, lên men thức ăn trong ruột động vật nhai lại, hệ
thống khí, dầu tự nhiên và khai thác than. N2O phát thải từ phân bón và các hoạt
động công nghiệp. HFCs được sử dụng thay cho các chất phá hủy ôzôn (ODS) và
HFC-23 là sản phẩm phụ của quá trình sản xuất HCFC-22. PFCs sinh ra từ quá

trình sản xuất nhôm. SF6 sử dụng trong vật liệu cách điện và trong quá trình sản
xuất magiê đây là những nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến
toàn cầu trong đó có Việt Nam.
– Biến đổi khí hậu ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến nguồn tài nguyên nước.
Nguồn nước mặt khan hiếm trong mùa khô gây hạn hán, và quá dư thừa trong mùa
mưa gây lũ lụt. Nguồn nước ngầm bị suy giảm dẫn đến cạn kiệt do khai thác quá
mức và thiếu nguồn bổ sung. Cụ thể như:
+ Thay đổi khoảng thời gian mưa và khu vực mưa. Sự thay đổi này có thể làm
giảm hoặc tăng lượng mưa tại một số khu vực.
+ Bão lụt và hạn hán khắc nghiệt xuất hiện thường xuyên, kết quả của sự tăng/giảm
tổng lượng mưa.
+ Những vấn đề về chất lượng nước tại các khu vực nơi có ít dòng chảy do ô
nhiễm nguồn nước do thiên nhiên và con người gây ra
*/ Tác động của biến đổi khí hậu đến môi trường nước trên thế giới:
– Do sự nóng lên của khí hậu toàn cầu nên các lớp băng tuyết sẽ bị tan nhanh
trong những thập niên tới. Trong thế kỷ XX, mực nước biển tại châu á dâng lên
trung bình 2,4 mm/năm, riêng thập niên vừa qua là 3,1 mm/năm, dự báo sẽ tiếp tục
dâng cao hơn trong thế kỷ XXI khoảng 2,8mm – 4,3 mm/năm.
-Mực nước biển dâng lên có thể nhấn chìm nhiều vùng rộng lớn, nơi ở của hàng
triệu người sống ở các khu vực thấp ở Việt Nam, Bangladesh, Ấn Độ và Trung
Quốc,… làm khan hiếm nguồn nước ngọt ở một số nước châu Á do biến đổi khí
hậu đã làm thu hẹp các dòng sông băng ở dãy Hymalayas.
*/ Tác động của biến đổi khí hậu đến môi trường nước ở Việt Nam
Việt Nam là một trong 5 nước sẽ chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của biến đổi khí
hậu (BĐKH) và nước biển dâng. Theo tính toán của các chuyên gia nghiên cứu
biến đối khí hậu, đến năm 2100,mực nước biển có thể dâng 1m. Theo đó, khoảng
40 nghìn km2 đồng bằng ven biển Việt Nam sẽ bị ngập.Còn Văn phòng quản lý
điều tra tài nguyên biển và môi trường (thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường) dự
báo: mực nước biển ở Việt Nam sẽ dâng cao từ 3- 15 cm vào năm 2010, dâng từ 15
– 90 cm vào năm 2070. Các vùng ảnh hưởng là Cà Mau, Kiên Giang, Bà Rịa- Vũng

Tàu, Thanh Hóa, Nam Định, Thái Bình. Đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng
sông Hồng là những vùng trũng nên bị ảnh hưởng nhiều nhất khi xảy ra ngập lụt,
xâm nhập mặn và các hiện tượng thời tiết xấu. Nếu nước biển dâng 3m sẽ có
khoảng 25% dân số bị ảnh hưởng như đợt xâm nhập mặn vào năm 2005, nước biển
dâng cao hơn sẽ làm cho nhiều vùng đồng bằng nước ngọt hiện nay trở thành vùng
nước lợ, hàng triệu người sẽ có nguy cơ bị mất chỗ ở, từ đó làm gia tăng sức ép lên
sự phát triển của các vùng lân cận, làm thay đổi chế độ thủy văn dòng chảy và gây
áp lực đến 90% diện tích ngập nước. Lưu lượng nước sông Mêkông giảm từ 2 –
24% trong mùa khô, tăng từ 7- 15% vào mùa lũ. Hạn hán sẽ xuất hiện nhiều hơn.
Nước lũ sẽ cao hơn tại các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang, Kiên
Giang, Vĩnh Long, TP Cần Thơ, Hậu Giang, thời gian ngập lũ tại đây sẽ kéo dài
hơn hiện nay. Việc tiêu thoát nước mùa mưa lũ cũng khó khăn. Suy giảm tài
nguyên nước sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp, nghề cá. Quá
trình xâm nhập mặn vào nội đồng sẽ sâu hơn, tập trung tại các tỉnh ven biển gồm
Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Tiền Giang, Long An và nước
ngọt sẽ khan hiếm.
Tóm lại, khan hiếm và thiếu nước là mối đe doạ rất nghiêm trọng đối với sự tồn
tại của con người trong tương lai. Vì lẽ đó, cần có các giải pháp quản lý, khai thác
và bảo vệ tốt tài nguyên nước. Trước hết, cần phải củng cố, bổ sung mạng lưới
điều tra quan trắc tài nguyên nước, bao gồm cả nước mặt và nước dưới đất, cả
lượng và chất, hình thành mạng lưới quan trắc điều tra tài nguyên nước thống nhất
trong phạm vi cả nước, tiến hành kiểm kê đánh giá tài nguyên nước trong các lưu
vực sông, các vùng và toàn lãnh thổ. Trên cơ sở kiểm kê đánh giá tài nguyên nước
và cân bằng kinh tế nước mà xây dựng chiến lược, chính sách phát triển bền vững
tài nguyên nước quốc gia nói chung và cho các lưu vực nói riêng. Cần thực hiện
nghiêm chỉnh Luật Tài nguyên Nước và đẩy mạnh hoạt động của Hội đồng Tài
nguyên Nước Quốc gia và Ban quản lý lưu vực các sông.
2. Hệ thống văn bản pháp quy
Để các biện pháp bảo vệ tài nguyên nước có hiệu quả Nhà nước ta đã đưa ra hệ
thống các qui định cụ thể của pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước .

Quốc hội ban hành
– Luật Tài nguyên nước (TNN) ngày ban hành 20/05/1998 số 08/1998/QH10
– Luật bảo vệ môi trường Quốc hội nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam thông qua
ngày 25/11/2005
– Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1999 sửa đổi năm
2010 về xử lý vi phạm tài nguyên nước
Chính phủ ban hành
– Nghị định số 179/1998/NĐ-CPquy định chi tiết thi hành luật Tài nguyên nước
– Nghị định số 149/2004/NĐ-CP ngày ban hành 27/07/2004 quy định việc cấp giấy
phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước và xả nước thải vào nguồn nước
– Nghị định số 34/2005/NĐ-CP ngày ban hành 17/03/2005 của Chính phủ về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước
– Nghị định 117/2009/NĐ-CP ngày ban hành 31/12/2009 về xử lý vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
-Nghị định số 04/2007/NĐ-CP của chính phủ về sửa đổi nghị định số 67/2003/NĐ-
CP 16/03/2003 về thu phí bảo vệ môi trường
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và môi trường ban hành:
– Thông tư số 02/2005/TT-BTNMT ngày 24/6/2005 hướng dẫn thi hành Nghị định
số 149/2004/NĐ-CP của Chính phủ
– Thông tư số 05/2005/ TT-BTNMT ngày 22 tháng 7 năm 2005 hướng dẫn thi hành
Nghị định số 34/2005/NĐ-CP ngày 17 tháng 3 năm 2005 của Chính phủ
– Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ Về việc phê duyệt “Kế
hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng".
– Quyết định số 22/2006/QĐ-BTNMT ngày 18/12/2006 của Bộ Tài nguyên môi
trường về việc bắt buộc áp dụng Tiêu chuẩn việt nam về môi trường.
– Quyết định số 17/2006/QĐ-BTNMT về việc cấp phép hành nghề khoan nước
dưới đất quy mô nhỏ.
2.1. Luật Tài nguyên nước
Luật gồm 9 chương 71 điều bao gồm các nội dung:
– Những qui định chung: quy định hình thức sở hữu, đối tượng sử dụng, cơ quan

quản lý và các mối quan hệ về tài nguyên nước đồng thời quy định các hành vi bị
nghiêm cấm
– Bảo vệ tài nguyên nước: quy định trách nhiệm bảo vệ tài nguyên nước của các cơ
quan nhà nước, các tổ chức, chính quyền. Tất cả các vấn đề liên quan đến bảo vệ
chất lượng nước trong khai thác sử dụng, sản xuất, sinh hoạt bao gồm cả vấn đề xả
nước thải vào nguồn được đề cập đến trong chương này.
– Khai thác sử dụng tài nguyên nước: quy định quyền của chính phủ trong việc
điều hòa, phân phối tài nguyên nước; quyền lợi và nghĩa vụ của các tổ chức, cá
nhân khai thác và sử dụng tài nguyên nước cho các mục đích khác nhau.
– Phòng chống, khắc phục hậu quả lũ lụt và tác hại khác do nước gây ra (chương
IV): bao gồm 11 điều (điều 36 – 46) liên quan đến các vùng ĐNN do lũ lụt, lưu
vực sông, ao, hồ. Chương này quy định trách nhiệm quản lý nhà nước của các cơ
quan thuộc chính phủ, ủy ban nhân dân các cấp trong việc tổ chức, lập phương án,
quy hoạch dân cư, phân lũ, huy động lực lượng. Phần này cũng xác định trách
nhiệm, nghĩa vụ của các tổ chức, cơ quan nhà nước và toàn dân trong công tác
phòng, chống, khắc phục hậu quả lũ lụt và các tác hại khác do nước gây nên. Khai
thác và bảo vệ các công trình thủy lợi: xác định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân
quản lý khai thác, bảo vệ. Nội dung này quy định rõ các tổ chức, cá nhân được giao
quản lý phải xây dựng phương án bảo vệ, phạm vi bảo vệ các công trình thủy lợi,
đê điều; các điều nghiêm cấm trong quản lý, khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi
cũng được nêu ra.
– Quan hệ quốc tế về tài nguyên nước: quy định nguyên tắc ứng xử, trách nhiệm
bảo vệ quyền lợi đất nước, hợp tác quốc tế trong quản lý và phát triển tài nguyên,
và giải quyết tranh chấp về nguồn nước quốc tế.
– Quản lý nhà nước về tài nguyên nước: quy định nội dung quản lý nhà nước về tài
nguyên nước (xây dựng chiến lược, quy hoạch, ban hành văn bản pháp luật, cấp và
thu hồi giấy phép…); thẩm quyền quản lý, phê duyệt quy hoạch và chức năng của
hội đồng quốc gia về tài nguyên nước.
– Quy định về thể chế thanh tra chuyên ngành nước
Tới nay mới chỉ thực thi được một phần những cải cách mà luật này đem lại. Hệ

Xem thêm: Bài Giảng Thể Tích Khối Đa Diện, Bài Giảng Điện Tử Thể Tích Khối Đa Diện

thống các văn bản dưới luật hướng dẫn chi tiết việc thực thi luật còn đang trong
quá trình xây dưng (cấp phép khai thác tài nguyên nước dưới đất, các giới hạn thải,
v.v.)Điểm đặc biệt của luật tài nguyên nước là cách tiếp cận quản lý tài nguyên
nước mang tính liên ngành và phối hợp. Cách tiếp cận này đã được triển khai thông
qua việc thành lập Hội đồng Quốc gia về Tài nguyên nước ở cấp quốc gia và các
Ban quản lý và quy hoạch lưu vực ở cấp địa phương. Các cơ quan này là các đơn
vị trực thuộc Chính phủ và có nhiệm vụ tư vấn, điều phối và quy hoạch giúp Chính
phủ.
Về cơ bản Luật Tài nguyên nước được xây dựng làm khung pháp lý linh hoạt và sẽ
được bổ sung một số Nghị định tiếp theo. Các Nghị định này sẽ quy định trách
nhiệm và nhiệm vụ của các tổ chức, cơ quan thực hiện Luật Tài nguyên nước.
2.2. Luật bảo vệ môi trường Quốc hội nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam thông
qua ngày 25/11/2005
Luật gồm 15 chương 135 điều. Luật dành chương VII đề cập đến bảo vệ nguồn
nước bao gồm môi trường nước biển, nước sông và các nguồn nước khác.
Đối với bảo vệ môi trường nước biển (quy định từ điều 55 đến điều 58), luật đưa
ra các nguyên tắc bảo vệ, các hành vi nhằm bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên
nước biển, kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường biển, các hoạt động tổ chức và
ứng phó với sự cố môi trường biển.
Đối với môi trường nước sông (qui định từ điều 59 đến điều 62), ngoài các quy
định tương tự như đối với môi trường Biển, luật còn quy định trách nhiệm của Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh đối với bảo vệ nguồn nước trong các lưu vực sông (điều 61).
Đối với các nguồn nước khác (qui định từ điều 63 đến điều 65)như phục vụ cho
thủy điện, sinh hoạt đô thị, nước dưới đất, nước trong các kênh, rạch, hồ, ao…
được quy định trong mục 3 chương VII.Với mục đích ngăn ngừa sự ô nhiễm nguồn
nước từ các nguồn chất thải rắn, chất thải lỏng, việc quản lý chất thải được quy
định trong chương VIII của Luật này.
2.3. Nghị định của chính phủ số 149/2004/NĐ-CP
Nội dung của nghị định quy định việc cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài
nguyên nước và xả nước thải vào nguồn nước bao gồm 4 chương 25 điều. Nghị

định này quy định việc cấp, gia hạn, thay đổi, đình chỉ, thu hồi giấy phép thăm dò,
khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước. Đối tượng thực
hiện là mọi tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài có các hoạt
động liên quan đến việc thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải
vào nguồn nước. Nghị định cũng xác định rõ trong trường hợp phát sinh mâu thuẫn
trong các điều khoản quốc tế đã được Việt Nam ký kết với nội dung của Nghị định
sẽ được thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế đó.
Chương II quy định việc cấp, gia hạn, thay đổi… giấy phép khi sử dụng tài nguyên
nước và xả nước thải vào nguồn nước. Điều 6 của nghị định xác định các trường
hợp không phải thực hiện các thủ tục xin phép này như đối với các vùng ĐNN
(nuôi trồng thủy sản, sản xuất muối…) của các quy mô sản xuất nhỏ phục vụ sinh
hoạt trong phạm vi gia đình; khai thác sử dụng nước mưa, nước mặt trong phạm vi
đất được giao.
Trình tự xin cấp phép, gia hạn giấy phép sử dụng tài nguyên nước và xả nước thải
vào nguồn nước được quy định trong chương III và chương IV. Nội dung này liên
quan đến các thủ tục hành chính trong quản lý nhà nước về nguồn nước để đảm
bảo tính pháp lý và sức chịu đựng của nguồn nước tại nơi khai thác hoặc tiếp nhận
nước thải.
Nghị định cũng bãi bỏ một số điều chưa thỏa đáng trong nghị định 179/1999/NĐ-
CP như điều 5, 9, 10 và 12.
2.4. Nghị đinh của Chính phủ số 34/2005/NĐ-CP
Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước.
Nghị định gồm 5 chương 28 điều quy định cụ thể về các trường hợp và các mức bị
xử phạt. Đây là một công cụ pháp chế nhằm xử lý các hành vi xâm hại đến chất
lượng và dự trữ tài nguyên nước. Chương II của Nghị định quy định các hình thức
xử phạt cụ thể cho từng trường hợp gây tổn hại cho tài nguyên nước như phạt tiền
với các mức khác nhau, khôi phục lại trạng thái ban đầu, tước giấy phép hành nghề
khai thác nước mặt, nước dưới đất… Liên quan đến các vùng ĐNN, điều 16 quy
định xử phạt đối với các hành vi thu hẹp vùng ĐNN như ao, hồ, đầm lầy bởi các
phế thải, đất, đá…Nghị định này qui định cụ thể như

Theo Điều 5. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính
1. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước
là (1) một năm, kể từ ngày hành vi vi phạm hành chính được thực hiện. Quá thời
hạn nói trên thì không xử phạt, nhưng vẫn bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu
quả quy định tại khoản 3 Điều 7 của Nghị định này.
2. Đối với cá nhân đã bị khởi tố, truy tố hoặc đã có quyết định đưa ra xét xử theo
thủ tục tố tụng hình sự nhưng sau đó có quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ
vụ án mà hành vi vi phạm có dấu hiệu vi phạm hành chính thì bị xử phạt vi phạm
hành chính; trong trường hợp này thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là ba tháng
kể từ ngày người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính nhận được quyết định
đình chỉ và hồ sơ vụ vi phạm của cơ quan tiến hành tố tụng.
3. Trong thời hạn quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà cá nhân,
tổ chức lại thực hiện hành vi vi phạm hành chính mới trong lĩnh vực tài nguyên
nước hoặc cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt thì không áp dụng thời hiệu quy
định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này; thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được
tính lại kể từ thời điểm thực hiện hành vi vi phạm hành chính mới hoặc thời điểm
chấm dứt hành vi cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt.
Theo Điều 7. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục
hậu quả
1. Đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước, cá
nhân, tổ chức vi phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính sau đây:
a) Cảnh cáo;
b) Phạt tiền.
Mức phạt tiền tối đa đối với một hành vi vi phạm hành chính trong
lĩnh vực tài nguyên nước là 100.000.000 đồng.
2. Căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính còn
có thể bị áp dụng một hoặc hai hình thức xử phạt bổ sung sau đây:
a) Tước quyền sử dụng giấy phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả
nước thải vào nguồn nước; giấy phép hành nghề khoan nước dưới đất;
b) Tịch thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính.

3. Ngoài hình thức xử phạt được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, cá
nhân, tổ chức vi phạm hành chính còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp
khắc phục hậu quả sau đây:
a) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây
ra hoặc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép, dỡ bỏ, di dời các vật gây cản trở
dòng chảy;
b) Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm, suy giảm chất
lượng và số lượng của nguồn nước do vi phạm hành chính gây ra;
c) Buộc thực hiện đúng quy định trong giấy phép;
d) Buộc cung cấp đầy đủ và trung thực các dữ liệu, thông tin về tài nguyên nước tại
khu vực thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn
nước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu.
4. Cá nhân, tổ chức vi phạm nếu không tự nguyện thực hiện các hình thức xử phạt,
biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại Điều này thì bị áp dụng các biện pháp
cưỡng chế và phải chịu mọi chi phí cho việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế đó.
Việc cưỡng chế thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 66 Pháp lệnh Xử lý
vi phạm hành chính.
Theo Điều 8. Vi phạm trong việc thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả
nước thải vào nguồn nước không có giấy phép theo quy định của pháp luật thì mức
phạt tối thiểu là phạt tiền 200.000 đồng và tối đa là 30.000.000 đồng đối với hành
vi xả vào nguồn nước lượng nước thải từ 5.000 m3/ngày đêm trở lên.
Theo Điều 9. Vi phạm quy định của giấy phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài
nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước thì mức phạt tối thiểu 100.000 đồng và
tối đa 25.000.000 đồng đối với hành vi xả vào nguồn nước lượng nước thải vượt
quá quy định trong giấy phép từ 5000 m3/ngày đêm trở lên.
Theo Điều 10. Hình thức xử phạt và mức phạt đối với hành vi cho mượn, cho thuê,
chuyển nhượng, sửa chữa nội dung giấy phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài
nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước. . mức phạt tối thiểu 10.000.000 và tối
đa 30.000.000 đồng đối với hành vi sửa chữa nội dung giấy phép.
Theo Điều 11. Sử dụng giấy phép đã quá hạn thì phạt cảnh cáo đối với hành vi

thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước khi
giấy phép đã quá hạn dưới ba mươi (30) ngày, trừ trường hợp đã nộp hồ sơ xin gia
hạn theo quy định.Phạt tiền mức tối thiểu 100.000 đồng và tối đa là 10.000.000
đồng đối với hành vi tiếp tục xả vào nguồn nước lượng nước thải từ 5.000 m3/ngày
đêm trở lên.
Theo Điều 12. Vi phạm quy định về hành nghề khoan nước dưới đất thì mức phạt
tối thiểu là phạt tiền từ 500.000 đồng và tối đa là 14.000.000 đồng
Theo Điều 13. Gây hư hại các phương tiện, công trình, thiết bị trong hệ thống lưới
trạm điều tra cơ bản tài nguyên nước thì mức phạt tối thiểu là phạt tiền từ 50.000
đồng và tối đa 8.000.000 đồng đối với hành vi gây hư hại các phương tiện, công
trình, thiết bị đo đạc, quan trắc, thu thập dữ liệu, thông tin về tài nguyên nước.
Theo Điều 14. Vi phạm các quy định về thu thập, quản lý, khai thác, sử dụng dữ
liệu, thông tin về tài nguyên nước thì mức phạt tối thiểu là phạt tiền từ 50.000 đồng
và tối đa 5.000.000 đồng đối với hành vi cung cấp các số liệu tính toán; các kết
luận điều tra, khảo sát không trung thực cho cơ quan lưu trữ dữ liệu, thông tin về
tài nguyên nước.
Theo điều Điều 15. Cản trở hoạt động quản lý nhà nước về tài nguyên nước thì
mức phạt tối thiểu là phạt tiền từ 100.000 đồng và tối đa 8.000.000 đồng đối với
hành vi cản trở công tác kiểm tra, thanh tra về tài nguyên nước do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền tiến hành.
Theo Điều 16. Các vi phạm khác trong lĩnh vực tài nguyên nước thì múc phạt tối
thiểu là phạt tiền từ 50.000 đồng đối với hành vi khai thác nước dưới đất quy mô
nhỏ trong phạm vi gia đình thuộc diện phải đăng ký nhưng không làm các thủ tục
đăng ký và tối đa 100.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau
đây: Xả nước thải trái phép vào tầng chứa nước hay khai thác nước dưới đất trong
vùng cấm khai thác.
2.5. Nghị định của chính phủ 117/2009/NĐ-CP Về xử lý vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
Theo Điều 10. Vi phạm các quy định về xả nước thải đối với hành vi xả nước thải
vượt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về chất thải dưới 2 lần thì xử phạt tối thiểu là

phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền 100.000 đồng và tối đa 500.000.000 đồng đối với
hành vi xả nước thải có chứa chất phóng xạ gây nhiễm xạ môi trường vượt tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật cho phép.
Theo Điều 14.Khoản 2 Hành vi gây ô nhiễm nước phạt tiền từ 15.000.000 đồng
đến 25.000.000 đồng đối với hành vi xả, thải dầu mỡ, hóa chất độc hại, các chất
thải, xác động vật, thực vật, vi khuẩn, siêu vi khuẩn, ký sinh trùng độc hại và gây
dịch bệnh hoặc các yếu tố độc hại khác vào môi trường nước không đúng quy định
của pháp luật về bảo vệ môi trường.
2.6. Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1999 sửa đổi
năm 2010
Điều 182. Tội gây ô nhiễm môi trường
1. Người nào thải vào không khí, nguồn nước, đất các chất gây ô nhiễm môi
trường, phát tán bức xạ, phóng xạ vượt quá quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất
thải ở mức độ nghiêm trọng hoặc làm môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng hoặc
gây hậu quả nghiêm trọng khác, thì bị phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến năm
trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến
năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến
mười năm:
a) Có tổ chức;
b) Làm môi trường bị ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng hoặc gây hậu quả rất
nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng khác.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm năm
mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định từ một năm đến năm năm.
Điều 182a. Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại
1. Người nào vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác, nếu không thuộc trường
hợp quy định tại Điều 182 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ năm mươi triệu đồng
đến năm trăm triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ

sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến
bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng;
c) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ năm năm đến
mười năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm năm
mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định từ một năm đến năm năm.
Điều 182b. Tội vi phạm quy định về phòng ngừa sự cố môi trường
1. Người nào vi phạm quy định về phòng ngừa sự cố môi trường để xảy ra sự cố
môi trường hoặc vi phạm quy định về ứng phó sự cố môi trường làm môi trường bị
ô nhiễm nghiêm trọng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác, thì bị phạt tiền từ năm
mươi triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm
hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ năm năm đến
mười năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm năm
mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định từ một năm đến năm năm.
Điều 183. Tội gây ô nhiễm nguồn nước
1. Người nào thải vào nguồn nước dầu mỡ, hoá chất độc hại, chất phóng xạ quá
tiêu chuẩn cho phép, các chất thải, xác động vật, thực vật, vi khuẩn, siêu vi khuẩn,
ký sinh trùng độc hại và gây dịch bệnh hoặc các yếu tố độc hại khác, đã bị xử phạt
hành chính mà cố tình không thực hiện các biện pháp khắc phục theo quyết định
của cơ quan có thẩm quyền gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tiền từ mười
triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt

tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ năm năm đến mười
năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu
đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ
một năm đến năm năm.
2.7. Nghị định số 67/2003/NĐ-CP quy định về thu phí bảo vệ môi trường đối với
nước thải
Mức thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt được tính theo tỷ lệ
phần trăm (%) trên giá bán của 1m
3
(một mét khối) nước sạch, nhưng tối đa không
quá 10% (mười phần trăm) của giá bán nước sạch chưa bao gồm thuế giá trị gia
tăng. Đối với nước thải sinh hoạt thải ra từ các tổ chức, hộ gia đình tự khai thác
nước để sử dụng (trừ hộ gia đình ở những nơi chưa có hệ thống cấp nước sạch), thì
mức thu được xác định theo từng người sử dụng nước, căn cứ vào số lượng nước
sử dụng bình quân của một người trong xã, phường nơi khai thác và giá cung cấp
1m
3
nước sạch trung bình tại địa phương.
Mức thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp tính theo từng chất
gây ô nhiễm được quy định như sau:
STT Chất gây ô nhiễm có trong nước Mức thu (đồng/kg chất gây ô nhiễm
thải có trong nước thải)
Tên gọi Ký hiệu Tối thiểu Tối đa
1 Nhu cầu ô xy hoá
học
A
COD

100 300
2 Chất rắn lơ lửng A
TSS
200 400
3 Thuỷ ngân A
Hg
10.000.000 20.000.000
4 Chì A
Pb
300.000 500.000
5 Arsenic A
As
600.000 1.000.000
6 Cadmium A
Cd
600.000 1.000.000
2.8. Quyết định số 22/2006/QĐ-BTNMT ngày 18/12/2006 của Bộ Tài nguyên
môi trường về việc bắt buộc áp dụng Tiêu chuẩn việt nam về môi trường
Công thức tính nồng độ tối đa cho phép các chất ô nhiễm trong nước thải công
nghiệp
a) Nồng độ tối đa cho phép các chất ô nhiễm trong nước thải của các cơ sở sản
xuất, chế biến, kinh doanh, dịch vụ thải ra các vực nước được tính như sau:
C
max
= C x K
q
x K
f
Trong đó:
C

max
là nồng độ tối đa cho phép của chất ô nhiễm trong nước thải của cơ sở sản
xuất, chế biến, kinh doanh, dịch vụ thải ra cácvực nước, tính bằng miligam trên lít
nước thải (mg/l);
C là giá trị nồng độ tối đa cho phép của chất ô nhiễm quy định trong Tiêu chuẩn
Việt Nam TCVN 5945:2005;
K
q
là hệ số theo lưu lượng/dung tích nguồn tiếp nhận nước thải.
K
f
là hệ số theo lưu lượng nguồn thải.
b) Không áp dụng công thức tính nồng độ tối đa cho phép trong nước thải công
nghiệp cho cột C và các thông số có số thứ tự từ 1 đến 4, từ 34 đến 37 quy định
trong Bảng 1 của TCVN 5945 : 2005.
Áp dụng các thông số quy định mới so với TCVN 5945: 1995 có số thứ tự 3; 4; 25;
27;30;35 tại Bảng 1 TCVN 5945 : 2005 chậm nhất kể từ ngày 01 tháng 01 năm
2008.
Các thông số điều chỉnh khắt khe hơn : COD cột B; Cadimi; Niken cột B; Tổng
nitơ; Coliform tạm thời áp dụng giá trị quy định tại Bảng 1 TCVN 5945 : 1995.
Chậm nhất kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2008 tất cả các cơ sở sản xuất, chế biến,
kinh doanh, dịch vụ phải áp dụng TCVN 5945 : 2005, hệ số lưu lượng / dung tích
nguồn tiếp nhận (Kq) và hệ số lưu lượng nguồn thải (K
f
).
2.9. Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ Về việc phê duyệt
“Kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng"
Nguyên tắc xử lý
Việc xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường được thực hiện trên nguyên
tắc bảo đảm sự phát triển bền vững.

Việc xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng phải được tiến
hành một cách kiên quyết và phù hợp với thực tế từng địa phương, từng ngành,
từng cơ sở; rà soát, chọn ra những cơ sở gây ô nhiễm điển hình, bức xúc nhất để xử
lý trước nhằm rút kinh nghiệm cho việc triển khai nhân rộng. Đối tượng nào gây ô
nhiễm môi trường thì đối tượng đó phải có trách nhiệm xử lý và khắc phục tình
trạng ô nhiễm một cách triệt để. Nhà nước có trách nhiệm xử lý và khắc phục ô nhiễm
môi trường đối với các trường hợp đặc thù.
Trong quá trình tiến hành xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng phải lưu ý bảo đảm quyền lợi chính đáng của người lao động theo pháp luật
hiện hành.
3. Đánh giá hệ thống pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ tài nguyên nước ở Việt
Nam
3.1 Những mặt ưu điểm của hệ thống pháp luật về bảo vệ TNN
Trong những năm qua, hệ thống pháp luật về bảo vệ TNN ngày càng được bổ
sung và hoàn thiện, đã phát huy vai trò tích cực trong việc huy động mọi nguồn lực
của toàn xã hội vào việc bảo vệ TNN. Vai trò tích cực của hệ thống pháp luật về
bảo vệ TNN được biểu hiện ở những khía cạnh chủ yếu sau đây:
Thứ nhất: hệ thống pháp luật về bảo vệ TNN ra đời thể hiện sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước ta trong việc tạo lập một khung pháp lý khả thi nhằm quản lý
chặt chẽ các nguồn TNN. Với việc ban hành Luật TNN đã từng bước đưa công tác
quản lý và sử dụng nước ở nước ta đi dần vào nề nếp; nâng cao ý thức của người
dân trong việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm nước đi đôi với bảo vệ chống gây ô nhiễm,
nhiễm bẩn và làm cạn kiệt các nguồn nước.
Thứ hai: pháp luật về bảo vệ TNN ra đời cùng với các văn bảo pháp luật khác về
bảo vệ đất; bảo vệ rừng; bảo vệ khoáng sản; bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản đã góp
phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về BVMT ở nước ta trong điều kiện kinh tế thị
trường. Điều này khẳng định Đảng và Nhà nước ta không chỉ quan tâm đến việc
đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, cải thiện và từng bước nâng cao mức sống cho
người dân mà còn rất chú trọng đến việc khai thác hợp lý và bảo vệ bền vững các
nguồn tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo cho con người quyền được sống trong một

môi trường trong lành.
Thứ ba, pháp luật về bảo vệ TNN của nước ta đã tiếp cận và “nội luật hoá” quan
điểm phát triển và quản lý tổng hợp TNN của Hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp
quốc về Môi trường và Phát triển họp tại Rio de Janeiro (Bra-xin) năm 1992
Việc quản lý tổng hợp TNN được thể hiện trong Luật TNN thông qua các quy định
đề cập đến những lĩnh vực cơ bản sau đây
– Thành lập một hệ thống cơ quan quản lý thống nhất về TNN;
– Quy định nội dung, thẩm quyền quản lý nhà nước về TNN;
– Quy định việc bảo vệ chất lượng nước; phòng, chống, khắc phục hậu quả và tác
hại do nước gây ra
– Quy định việc cấp, phép khai thác, sử dụng TNN
– Xây dựng chính sách tài chính về TNN
Thứ tư: pháp luật về bảo vệ TNN đã thể hiện sâu sắc quan điểm bảo vệ, khai thác,
sử dụng TNN; phòng, chống và khắc phục hậu quả, tác hại do nước gây ra phải
tuân theo quy hoạch lưu vực sông, bảo đảm tính hệ thống của lưu vực, không chia
cắt theo địa giới hành chính. Bởi lẽ, do đặc điểm của TNN là vận động theo lưu
vực nên việc quản lý, phát triển và bảo vệ TNN phải tôn trọng thuộc tính tự nhiên
này. Các hoạt động khai thác, sử dụng TNN thuộc các dự án phát triển cũng như
các hoạt động phòng, chống tác hại do nước gây ra trong phạm vi lưu vực đều phải
phù hợp với quy hoạch lưu vực sông.
Thứ năm: pháp luật về bảo vệ TNN đã đề cập đến vấn đề quan hệ quốc tế về
TNN. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với nước ta nhằm tranh thủ sự hợp
tác, giúp đỡ của các tổ chức phi chính phủ, cộng đồng quốc tế nói chung và sự phối
hợp của các nước có chung nguồn nước nói riêng trong việc khai thác hợp lý và
bảo vệ bền vững nguồn TNN. Bởi lẽ, các nguồn nước không chỉ phân bố trong
phạm vi một nước mà còn vận động theo lưu vực đi qua lãnh thổ của nhiều quốc
gia. Vì vậy, để bảo vệ và khai thác hợp lý các nguồn TNN; hạn chế các tác hại do
nước gây ra cho con người thì cần có sự hợp tác của các nước trong lưu vực sông.
Bên cạnh đó, pháp luật về bảo vệ TNN còn xác lập cơ chế pháp lý nhằm giải quyết
tranh chấp về nguồn nước quốc tế. Theo đó, mọi tranh chấp về chủ quyền trong

Xem thêm: Diện Tích Đầm Sen Nước – Công Viên Văn Hóa Đầm Sen

việc bảo vệ, khai thác, sử dụng nguồn nước quốc tế; phòng, chống và khắc phục
hậu quả, tác hại do nguồn nước gây ra giữa các nước có chung nguồn nước trong
đó có Việt Nam do Nhà nước Việt Nam và các Nhà nước liên quan giải quyết trên
cơ sở thương lượng, phù hợp với điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam ký kết
hoặc tham gia ( khoản 1 Điều 56 Luật TNN)
3.2 Những tồn tại, hạn chế của hệ thống pháp luật về bảo vệ TNN
Bên cạnh những mặt ưu điểm không thể phủ nhận, hệ thống pháp luật về bảo vệ
TNN ở nước ta còn bộ lộc những hạn chế, tồn tại cần phải được sửa đổi, bổ sung
cho phù hợp với đòi hỏi của quản lý nhà nước về TNN trong thời kỳ tiếp tục đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay. Những mặt hạn chế, tồn tại
này được biểu hiện ở một số khía cạnh chủ yếu sau đây:
Thứ nhất: còn thiếu các văn bản hướng dẫn thi hành các quy định của Luật TNN.
Điều này đã góp phần làm giảm hiệu lực quản lý nhà nước về TNN. Cụ thể:
– Thiếu các văn bản hướng dẫn chi tiết về trình tự, thủ tục đăng ký, kê khai, cấp
phép và gia hạn khai thác, sử dụng nước ngầm, nước mặt và xả nước thải;
– Thiếu các quy định về mẫu đơn xin đăng ký, kê khai và sử dụng các nguồn nước;
thiếu các mẫu giấy phép về khai thác, sử dụng các nguồn nước; thiếu các quy định
về tiêu chuẩn, định mức xả nước thải;
– Thiếu các văn bản quy định về việc thành lập hệ thống thanh tra chuyên ngành về
TNN cũng như các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra
chuyên ngành về TNN;
– Thiếu các quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và sử
dụng nước;
– Thiếu các văn bản hướng dẫn chi tiết về việc điều tra cơ bản, đánh giá trữ lượng,
chất lượng và quy hoạch TNN;
– Thiếu các quy định về bảo vệ chất lượng nước; ngăn ngừa các hành vi gây cạn
kiệt các nguồn nước;
– Thiếu các quy định về phí, lệ phí và thuế tài nguyên áp dụng cho các tổ chức, hộ
gia đình, cá nhân khai thác, sử dụng nước;
– Thiếu các quy định về quản lý tổng hợp lưu vực sông v.v.

Thứ hai: pháp luật về bảo vệ TNN còn thiếu các quy định cụ thể về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của các ban quản lý lưu vực sông; mối quan hệ giữa các ban
quản lý lưu vực sông với hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về TNN các cấp (Bộ
Tài nguyên và Môi trường, Cục Quản lý tài nguyên nước và UBND các địa
phương) trong việc phối, kết hợp quản lý, bảo vệ TNN nước; chưa xác định rõ ràng
cơ chế phối hợp quản lý TNN th

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Tiểu luận