100+ Đề Tài Và Mẫu Bài Tiểu Luận Triết Học Phương Tây, Triết Học Phương Tây Chọn Lọc

Triết học là hình thái ý thức xã hội ra đời từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ được thay thế bằng chế độ chiếm hữu nô lệ. Những triết học đầu tiên trong lịch sử xuất hiện vào khoảng thế kỷ VIII – VI trước công nguyên ở Ấn Độ cổ đại, Trung quốc cổ đại, Hy Lạp và La Mã cổ đại và ở các nước khác.

Đang xem: Tiểu luận triết học phương tây

*

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại LỜI MỞ ĐẦU Triết học là hình thái ý thức xã hội ra đời từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ đượcthay thế bằng chế độ chiếm hữu nô lệ. Những triết học đầu tiên trong lịch sử xuất hiệnvào khoảng thế kỷ VIII – VI trước công nguyên ở Ấn Độ cổ đại, Trung quốc cổ đại, HyLạp và La Mã cổ đại và ở các nước khác. Triết học được xem là một hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyêntắc chung nhất của tồn tại và nhận thức về thái độ của con người đối với thế giới, là khoahọc về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Triết học Phương Tây nói chung và Triết học Phương Tây từ cổ đại đến cận đại làmột bộ phận quan trọng trong hệ thống triết học thế giới. Đối tượng của triết học phươngTây nói chung ngoài phần siêu hình học bàn về những ý niệm trừu tượng như bản thể, ýthức, hư vô… còn lại là những hành trình vào các vấn đề cụ thể có liên quan tới con ngườinhư cảm giác, nhận thức, ký ức, hạnh phúc, đạo đức…. Các vấn đề về con người như conngười tri thức thế giới xung quanh như thế nào, vai trò của con người trong quá trình nhậnthức như thế nào… hay những vấn đề và xã hội như quan hệ giữa các nhân và xã hội, aiquan trọng hơn, đạo đức là vấn đề xã hội hay vấn đề cá nhân, quan hệ giữa cá nhân vànhà nước… là trọng tâm trong quan điểm của các triết gia phương Tây. Bài tiể luận nàysẽ tập trung tìm hiểu, nghiên cứu tư tưởng con người và xã hội được thể hiện trong quanđiểm của các triết gia thuộc các trường phái triết học khác nhau trong Triết học PhươngTây từ cổ đại tới cận đại. Trang 1Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đạiCHƯƠNG I – KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY CỔ ĐẠI ĐẾNCẬN ĐẠI I.1. TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI I.1.1. Điều kiện/hoàn cảnh ra đời Hy Lạp cổ đại là một lãnh thổ rộng lớn bao gồm khu vực miền Nam bán đảoBan-căng (thuộc Châu Âu), nhiều hòn đảo nằm trên biển Êgiê và cả một vùng rộnglớn ở ven biển bán đảo Tiểu á. Yếu tố địa lý tự nhiên này đã tạo điều kiện cơ bản đểnền nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp Hy Lạp cổ đại phát triển từ rất sớm.Quá trình lịch sử lâu dài với không ít những thăng trầm của vùng đất Hy Lạp cổ đạigắn liền với sự phát triển kinh tế – xã hội và tư tưởng triết học của nó trong đó sự phânchia xã hội thành giai cấp, sự phân công lao động xã hội thành lao động trí óc và laođộng chân tay đã dẫn tới sự hình thành một đội ngũ các nhà trí thức chuyên nghiệpchuyên nghiên cứu về khoa học, triết học.. Sự hình thành triết học Hy Lạp không diễnra một cách ngẫu nhiên mà là kết quả tất yếu của việc kế thừa những di sản tinh tuýcủa truyền thống trong sáng tác dân gian, trong thần thoại, trong các mầm mống củatri thức khoa học (khoa học tự nhiên). Nhưng bên cạnh đó, sự xuất hiện của những tríthức khoa học và triết học trong thời kỳ này đã tạo nên một bước ngoặt lớn về nhậnthức của con người, phá vỡ ý thức hệ thần thoại và tôn giáo nguyên thuỷ. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của nền sản xuất, những tri thức về khoa học tựnhiên phát triển mạnh, được trình bày trong hệ thống triết học – tự nhiên của các nhàtriết học cổ đại, bên cạnh đó, khoa học thời bấy giờ chưa phân ngành nên các nhà triếthọc đồng thời cũng là các nhà Toán học, nhà Vật lý học… Từ các yếu tố đó có thểkhẳng định rằng, triết học Hy Lạp cổ đại ngay từ khi ra đời đã có sự gắn bó với nhucầu thực tiễn và gắn với khoa học. Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ sau: – Triết học thời kỳ tiền Socrates (thời kỳ sơ khai) – Triết học thời kỳ Socrates (thời kỳ cực thịnh) – Triết học thời kỳ Hy Lạp hoá I.1.2. Nội dung/đặc điểm chính Triết học Hy Lạp cổ đại xuất hiện vào lúc xã hội này đã phát triển lên chế độchiếm hữu nô lệ với hai giai cấp chủ yếu là chủ nô và nô lệ nên nó là hệ tư tưởng, làthế giới quan của giai cấp chủ nô thống trị, đồng thời nó còn là công cụ bảo vệ, duy trì Trang 2Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đạiđịa vị, quyền lợi của giai cấp chủ nô, là công cụ nô dịch, đàn áp các giai cấp khác vềmặt tư tưởng. Bên cạnh tính giai cấp rõ rệt đó, triết học Hy Lạp cổ đại coi trọng, đềcao vai trò của con người, coi con người là tinh hoa của tạo hoá. Do là một trongnhững nền triết học mở đường trong lịch sử triết học nhân loại hơn nữa các quan niệmtriết học được rút ra trên cơ sở suy luận, suy đoán từ sự quan sát trực tiếp các sự kiệnxảy ra trong tự nhiên, trong xã hội nên triết học Hy Lạp cổ đại mang nặng tính sơkhai, chất phác, ngây thơ. Tuy nhiên, từ trong sự khởi đầu đó, các nhà triết học saunày đã nhìn thấy ở triết học Hy Lạp cổ đại mầm mống của tất cả các kiểu thế giớiquan sau này và xem nó là một đỉnh cao của triết học nhân loại. Tuỳ thuộc vào từngthời kỳ lịch sử, tuỳ từng không gian địa lý cụ thể mà triết học Hy Lạp cổ đại chiathành các trường phái và các giai đoạn phát triển khác nhau. Trên thực tế, mặc dù triết học duy vật Hy Lạp ra đời trên nền tảng thần thoại vàtôn giáo nhưng thế giới quan lại hoàn toàn mới lạ dựa trên cơ sở trí tuệ sâu sắc đã đemlại cho con người giải quyết đúng đắn những vấn đề do cuộc sống con người đặt ra,giúp họ có cách sống hợp lý trong xã hội. Có thể coi triết học Hy Lạp cổ đại là đỉnhcao của văn minh Hy Lạp, với các đặc trưng cơ bản: – Triết học Hy Lạp đã có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái, duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình, vô thần và hữu thần. Toàn bộ nền triết học thế giới sau này cũng dựa trên những nền tảng cơ bản đó. – Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã biết gắn bó chặt chẽ triết học với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau để hướng tới việc xây dựng thế giới quan tổng thể, biến triết học thành “khoa học của các khoa học”. – Triết học Hy Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phát và biện chứng sơ khai, cố gắng giải thích các sự vật hiện tượng trong một khối duy nhất thường xuyên vận động và biến đổi không ngừng. Với ý nghĩa đó, những tư tưởng biện chứng của triết học Hy Lạp cổ đại đã làm thành hình thức đầu tiên của phép biện chứng. – Thể hiện tính giai cấp sâu sắc, đã thể hiện nó là thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp chủ nô thống trị trong xã hội bấy giờ.Vì thế dễ hiểu tại sao phần lớn các nhà triết học thời kì này đều coi nô lệ không phải là con người mà chỉ là công cụ biết nói. Trang 3Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại – Triết học Hy Lạp đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người, khẳng định con người là vốn quý, là trung tâm hoạt động của thế giới, là tinh hoa cao quý nhất của tạo hóa.”Con người là thước đo tất thảy mọi vật”(Pitago). Mặc dù vậy, con người ở đây cũng chỉ là con người cá thể, giá trị thẩm định chủ yếu ở khía cạnh đạo đức, giao tiếp và nhận thức. I.1.3. Các triết gia tiêu biểu Hy Lạp là một trong những chiếc nôi của nền văn minh nhân loại. Ở đó xuấthiện rất sớm và đạt được những thành tựu rực rỡ mà ảnh hưởng của nó còn in đậm đốivới sự phát triển của tư tưởng triết học sau này. Thời kì này nổi bật lên với tên tuổicủa các nhà duy vật như Đêmôcrit, Hêraclit, Arixtôt, Êpiquya… Trong nội dung củabài tiểu luận này, chúng ta sẽ xem xét những thành tựu của nền triết học này thông quasự đóng góp của các triết gia tiêu biểu như Hêraclit, Đêmôcrit, Platon và Arixtôt,Socrates. I.1.3.a. Hêraclit Hêraclit đã đứng trên lập trường duy vật cổ đại để giải quyết vấn đề “cơ sở đầutiên” của thế giới từ một dạng vật chất cụ thể. Ông cho rằng lửa chính là bản nguyêncủa thế giới, là cơ sở duy nhất và phổ biến của tất cả mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên.Lửa là cơ sở làm nên sự thống nhất của thế giới. Thế giới vận động theo trật tự mà ônggọi là logos: logos khách quan và logos chủ quan quan hệ với nhau như là quan hệgiữa khách thể và nhận thức. Và như vậy thì sự phù hợp với logos khách quan là tiêuchuẩn để đánh giá tư duy con người. Đây là một đóng góp có giá trị của Heraclit chophép biện chứng sau này. Tuy chưa được trình bày dưới dạng một hệ thống các luận điểm như sau nàynhưng phép biện chứng của Hêraclit đã đề cập tới hầu hết những luận điểm cốt lõi củaphép biện chứng dưới dạng các câu danh ngôn mang tính thi ca và triết lý. Ông quanniệm về vận động vĩnh viễn của vật chất. Quan niệm về vận động đã được một số nhàtriết học trước đó đề cập nhưng phải đến Heraclit thì mới tồn tại với tư cách là họcthuyết về vận động với câu nói nổi tiếng “không ai có thể tắm hai lần trên cùng mộtdòng sông”. Quan niệm về vận động của ông có nội dung cốt lõi là tư tưởng về sựthống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Hêraclit đã đưa triết học Hy Lạp cổ đại nói chung và triết học duy vật cổ đạinói riêng tiến lên một bước mới với những quan điểm duy vật và những yếu tố biện Trang 4Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đạichứng. Học thuyết của ông được nhiều nhà triết học sau này kế thừa. Mác và Ăngghen coi ông là đại biểu xuất sắc của phép biện chứng Hy Lạp cổ đại, đồng thời haiông cũng vạch rõ những hạn chế, sai lầm của Hêraclit về mặt chính trị trong quanniệm phản dân chủ, thù địch với nhân dân do ông chủ trương. I.1.3.b. Đêmôcrit: Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Đêmocrit nêu ra khái niệm không gian.Theo ông, không gian là khoảng chân không rộng lớn, trong đó những nguyên tử vậnđộng vĩnh viễn. Không gian là những khoảng trống giữa các vật thể, nhờ đó các vậtthể có thể tụ lại hoặc giãn ra. Xuất phát từ học thuyết nguyên tử, Đêmocrit cho rằngkhông gian là gián đoạn và có thể phân chia vô tận. Đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa duy vật Đêmôcrit là quyết định luận (thừa nhậnsự ràng buộc theo luật nhân quả và tính quy luật của các hiện tượng tự nhiên) nhằmchống lại mục đích luận (là quan điểm duy tâm cho rằng cái thống trị trong tự nhiênkhông phải là tính nhân quả mà có tính mục đích). Sự thừa nhận tính nhân quả, tính tấtyếu và tính quy luật trong giới tự nhiên là một trong những thành quả có giá trị nhấtcủa triết học duy vật Hy Lạp cổ đại. Đêmocrit có nhiều công lao trong việc xây dựng lý luận về nhận thức. Ông đặtra và giải quyết một cách duy vật vấn đề đối tượng của nhận thức, vai trò của cảm giácvới tính cách là điểm bắt đầu của nhận thức và vai trò của tư duy trong việc nhận thứctự nhiên. Nét đặc sắc trong triết học duy vật của Đêmôcrit là chủ nghĩa vô thần. Ông chorằng sở dĩ con người tin vào thần thánh là vì con người bất lực trước những hiện tượngkhủng khiếp của tự nhiên. Theo ông, thần thánh chỉ là sự nhân cách hoá những hiệntượng tự nhiên hay là những thuộc tính của con người. Thí dụ, mặt trời mà tôn giáoHy Lạp đã thần thánh hoá thì ông cho đó chỉ là một khối lửa. Công lao có ý nghĩa lịch sử của Đêmôcrit là ông đã bền bỉ đấu tranh cho quanniệm duy vật về tự nhiên. Nó đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển tiếp theo củatriết học duy vật. I.1.3.c. Platon: Platon là một nhà triết học duy tâm khách quan. Ông là người đầu tiên xâydựng hệ thống hoàn chỉnh đầu tiên của chủ nghĩa duy tâm khách quan, đối lập với thếgiới quan duy vật. Ông đã tiến hành đấu tranh gay gắt chống lại chủ nghĩa duy vật đặc Trang 5Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đạibiệt là chống lại những đại biểu của chủ nghĩa duy vật thời bấy giờ như Hêraclit,Đêmôcrit. Theo Platon, giới tự nhiên thế giới của những vật cảm tính bắt nguồn từnhững thực thể tinh thần tức là từ những ý niệm; vật thể cảm tính chỉ là cái bóng của ýniệm. Ông cho rằng, để nhận thức được chân lý người ta phải từ bỏ mọi cái hữu hìnhcảm tính; phải “hồi tưởng” lại những gì mà linh hồn bất tử quan sát được trong thếgiới ý niệm. Thuyết hồi tưởng thần bí này được xây dựng trên cơ sở học thuyết về linhhồn bất tử, tính độc lập của linh hồn với thể xác. Nếu ở Đêmocrit, phép biện chứng được sử dụng để phục vụ khoa học thì ởPlaton phép biện chứng lệ thuộc vào triết học duy tâm. Đường lối Platon chống lạiđường lối Đêmôcrit trong triết học Hy Lạp cổ đại, chống lại thuyết nguyên tử củaĐêmôcrit. Các hiện tượng tự nhiên bị ông quy về các quan hệ toán học. Đạo đức họccủa ông được xây dựng trên học thuyết về linh hồn bất tử là một hình thức của lý luậntôn giáo, là bộ phận quan trọng nhất của ý thức tư tưởng của tầng lớp chủ nô quý tộc. Platon là một trong những nhà triết học xuất sắc nhất trong nền triết học HyLạp cổ đại, hệ thống triết học của ông đề cập đến nhiều học thuyết như ý niệm, nhậnthức luận… và dù cho còn có hạn chế nhưng ông là người có công lớn trong việcnghiên cứu các vấn đề về ý thức xã hội, đặt nền tảng cho việc xây dựng các khái niệm,phạm trù và tư duy lý luận. I.1.3.d. Arixtôt: Ông đã nêu lên học thuyết bốn nguyên nhân, trong đó ông cho rằng bất kỳ sựvật nào, nếu tồn tại bao giờ cũng xuất phát và được tạo thành từ bốn nguyên nhân:nguyên nhân hình dạng, nguyên nhân mục đích, nguyên nhân vật chất, nguyên nhânvận động. Bên cạnh học thuyết bốn nguyên nhân, Arixtôt còn xây dựng học thuyết vềlinh hồn và nhận thức luận. Ông phê phán quan niệm của Platon về linh hồn bất tử,ông cho rằng không chỉ có con người mà mọi thực thể sống đều có linh hồn và khôngphải mọi linh hồn đều bất tử. Lý luận nhận thức của Arixtôt chứa đựng nhiều tư tưởnghợp lý và nhiều yếu tố duy vật. Theo ông, đối tượng của nhận thức là ở bên ngoài conngười, quá trình nhận thức là quá trình phản ánh đối tượng bên ngoài ấy và trải quanhiều cấp độ từ thấp đến cao, chưa hoàn thiện đến hoàn thiện theo trình tự : Cảm giác,biểu tượng, kinh nghiệm, nghệ thuật, khoa học. Đạo đức học của Arixtôt phản ánh rõnhất lập trường giai cấp của ông. Ông cho rằng, đạo đức phải phục vụ quyền lợi củanhà nước, hành vi nào làm suy yếu nhà nước là không có đạo đức. Đạo đức phải gắn Trang 6Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đạiliền với hành vi của con người, tiêu chuẩn đánh giá một cá nhân có đạo đức khôngphải ở lời nói mà là ở hành động. Triết học của Arixtôt tuy còn những hạn chế, daođộng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, nhưng ông vẫn xứng đáng là bộ ócvĩ đại nhất trong các bộ óc vĩ đại của nền triết học Hy Lạp cổ đại, “là vị hoàng đếMaxêđoan” của triết học. I.1.3.e. Socrates Socrates xuất thân trong một gia đình khá giả ở Athen. Cha làm nghề điêu khắc,mẹ là nữ hộ sinh. Ông hướng về chính thể chủ nô quý tộc chống lại chủ nô dân chủ.Năm 399 BC, ông bị chủ nô dân chủ kết án tử hình về tội “coi thường luật pháp,chống lại chế độ bầu cử dân chủ”. Đối với ông chỉ có văn nói sống động, và văn viếtđã bị khô cứng. Vì vậy cuộc đời ông không để lại một tác phẩm nào. Chỉ biết đượcông qua đệ tử của ông. Triết học của ông khác với các nhà triết học trước đó. Các nhà triết học trướcnghiên cứu về giới tự nhiên. Nhưng ông dành phần lớn vào việc nghiên cứu về conngười, về đạo đức, về nhân sinh quan. Triết học không gì khác hơn là sự nhận thứccủa con người về chính mình, “con người hãy nhận thức chính mình”. Bắt đầu từ ông,đề tài con người trở thành một trong những chủ đề trong tâm của triết học phươngTây. Vì vậy, quan điểm triết học của ông bàn đến vấn đề con người trong đời sống xãhội mà trước hết là hành vi đạo đức. Xuất phát từ “đạo đức học duy lý”, ông cho rằng, “Hiểu biết là cơ sở của điềuthiện, ngu dốt là cội nguồn của cái ác, và chỉ có cái thiện phổ biến mới là cơ sở củađạo đức, mới là cơ sở của đức hạnh. Ai tuân theo cái thiện phổ biến thì người đó mớicó đạo đức. Và muốn theo cái thiện phổ biến thì phải hiểu được nó, muốn hiểu đượcnó phải thông qua các cuộc tranh luận, tọa đàm, luận chiến tìm ra chân lý theo cáchthức mà về sau được gọi là “phương pháp Socratess”. Trở nên thấp kém hơn bảnthân mìnhkhông phải là cái gì khác hơn ngoài sự ngu dốt, trở nên cao cả hơn bảnthân mình không phải cái gì khác ngoài sự thông thái”. Phương pháp triết học của ông gồm bốn bước: Một là “mỉa mai”, tức là nêu ranhững câu hỏi mẹo, mang tính châm biếm, mỉa mai nhằm làm cho đối phương sa vàomâu thuẫn. Hai là “đỡ đẻ tinh thần”, giúp cho đối phương thấy được con đường để tựmình khám phá ra chân lý. Ba là “qui nạp”, tức là xuất phát từ cái riêng lẻ khái quátthành những cái phổ biến, từ những hành vi đạo đức riêng lẻ tìm ra cái thiện phổ biến Trang 7Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đạicủa mọi hành vi đạo đức. Và phương pháp cuối cùng là “định nghĩa”, là chỉ ra hành vithế nào đạo đức, quan hệ thế nào là đúng mực. Phương pháp này đối với ông chỉ cónhững người có tri thức như giai cấp quý tộc và các triết gia mới là những người cóđạo đức. Bốn bước này quan hệ chặt chẽ với nhau trên bước đường tìm kiếm tri thứcchân thật, bản chất giúp con người sống đúng với tư cách và phận sự, của nó trong đờisống xã hội. Sự đóng góp của ông thay đổi từ nguyên lý vũ trụ sang nguyên lý nhân minh đãlàm nên một bước chuyển mới trong nền triết học. Cho nên, triết học Hy Lạp mới lấyông làm tiêu chí để phân kỳ, nó là thẩm định những giá trị của tư tưởng Socratess đốivới sự phát triển trong lịch sử. Ông là một trong những nhà tư tưởng nổi tiếng thời cổ đại, ông không để lại chođời một tác phẩm nào, vì ông chỉ thường xuyên đàm luận mà không viết. Ngày naychúng ta sở dĩ biết được được về Socratess là do các học trò của ông và những tưtưởng khác . Như vậy, nét nổi bật của triết học Hy Lạp cổ đại là đã đặt ra hầu hết các vấn đềcơ bản của triết học mà sau này các học thuyết triết học khác sẽ từng bước giải quyếttheo nội dung của thời đại mình, nó bao chứa mầm mống của tất cả thế giới quan vềsau này. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa phép biệnchứng và phép siêu hình được thể hiện rất rõ. Những thành tựu triết học cơ bản của nóxứng đáng ghi một mốc son trong lịch sử triết học của loài người. I.1.4. Nhậ định chung Triết học Hy Lạp-La Mã cổ đại là tiếng chuông vàng, là nhịp cầu vững chắc,nối những bến bờ triết học sau này. Đến nay những gì mà triết học Hy Lạp cổ đạimang đến cho nhân loại vẫn còn nguyên giá trị đó. Triết lý Hy Lạp cổ đại là nhữngviên gạch đầu tiên xây nên toàn bộ ngôi nhà văn minh của Châu Âu ngày nay. Ta cóthể thấy cả bề mặt và bề trái của Châu Âu ngày nay qua nền triết học Hy Lạp cổ đại.Điều đó làm cho nó sáng rực rỡ trên vũ đài triết học nhân loại và trở nên bất hủ. Marxnói: “Dại dột cho ai không thấy giá trị Hy Lạp cổ đại”. Nền triết học duy vật Hy Lạpcổ đại đã đạt những thành tựu rực rỡ về mọi mặt và đã có những cống hiến lớn lao vàokho tàng văn học của loài người. Hơn hai mươi lăm thế kỉ đã qua, thời đại nô lệ HyLạp đã lùi xa trong quá khứ của lịch sử loài người, nhưng cho đến ngày nay, triết họcHy Lạp cổ đại vẫn không hề mất đi giá trị của nó. Nền văn minh hiện đại Châu Âu bắt Trang 8Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đạinguồn từ nền văn minh Hy Lạp và chúng ta đã không thể hiểu đầy đủ văn hóa ChâuÂu ngày nay nếu không đi ngược thời gian để tìm hiểu những thành tựu huy hoàngcủa văn hóa Hy Lạp cổ đại, Ăngghen viết “Chúng ta luôn luôn phải quay về vớinhững thành tựu trong triết học cũng như trong mọi lĩnh vực khác của dân tộc nhỏ bénày, một dân tộc mà tài năng và hoạt động có tính chất toàn diện của nó đã đảm bảocho nó có một địa vị mà không có một dân tộc nào khác có tham vọng đạt tới tronglịch sử tiến hóa của nhân loại”.Ưu điểm: – Triết học cổ Hy Lạp như hồi chuông tỉnh thức giấc mộng thần thánh muôn đờicủa người dân Hy Lạp, tách vai trò của thần thánh ra khỏi ý thức hệ của con người. – Vai trò của tự nhiên và con người được đề cập một cách khách quan nhằm điđến tìm hiểu con người và tự nhiên từ đâu mà có và đi về đâu. – Đạo đức lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại được đề cập. – Là nền tảng cho các trường phái triết học sau này. – Khoa học Duy nghiệm và Duy lý manh nha hình thành. – Trả lời phần nào câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức thế giới không?Hạn chế – Triết học duy vật Hy Lạp cổ đại thể hiện tính bao trùm của nó về mọi lĩnh vựctrong thế giới quan của con người. Ra đời trong điều kiện còn quá ít và sơ khai nêntrình độ phát triển tư tưởng văn hóa của nhân loại thời kì này nói chung còn thấp. Triếthọc thời kì này đã đề cập tới những vấn đề thế giới quan cơ bản của con người. Tuynhiên do sự đối lập giữa lao động trí óc với lao động chân tay quá lớn, nên nhìn chungcác quan niệm triết học còn mang nặng tính tự biện. – Triết học cổ Hy Lạp còn nằm trên tư duy trừu tượng là chủ yếu. – Các vấn đề triết học còn chưa rõ ràng, còn rời rạc chưa hệ thống hóa. – Tuy có đặt vai trò của con người, nhưng chưa hoàn toàn tách khỏi yếu tố thầnlinh. I.2. TRIẾT HỌC TÂY ÂU TRUNG CỔ I.2.1. Điều kiện, hoàn cảnh ra đời Xã hội Tây Âu thời trung cổ là khoảng thời kỳ lịch sử ngàn năm (từ thế kỷ thứ IVđến thế kỷ XIV). Vào thế kỷ V, những cuộc nổi dậy của nô lệ và những cuộc đấu tranhgiai cấp bên trong cùng với sự tiến công của những man tộc bên ngoài đã đưa tới sự Trang 9Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đạisụp đổ của đế quốc La Mã phương Tây. Chính những sự kiện đó đã dẫn đến kết quảchấm dứt hình thái kinh tế – xã hội nô lệ cổ đại, và chế độ phong kiến Tây Âu ra đời.Đây là thời kỳ hình thành và phát triển PTSX phong kiến phương Tây. Nền kinh tế trong xã hội phong kiến mang tính chất tự nhiên, tự cấp, tự túc bởivì sản phẩm làm ra chỉ nhằm giải quyết các nhu cầu của các công xã và thái ấp. Cácthái ấp là một thế giới đóng kín; quyền chiếm hữu ruộng đất và tư liệu sản xuất cũngnhư sản phẩm làm ra không hoàn toàn thuộc về người lao động (nông dân hay nôngnô) mà thuộc về giai cấp địa chủ phong kiến. Vì vậy, phong trào đấu tranh của nôngdân lao động, thợ thủ công, dân nghèo thành thị chống bọn phong kiến và tầng lớp bóclột khác là một nội dung chủ yếu của lịch sử xã hội phong kiến. Sự hình thành vô số những điền trang thái ấp phong kiến Tây Âu đã tạo ra mộtchế độ phong kiến cát cứ phân quyền. Trong điều kiện đó, tôn giáo nhất thần đã có cơhội phát triển với tư cách là công cụ tinh thần thiêng liêng của giai cấp phong kiếnthống trị. Thiên chúa giáo – một dòng tôn giáo giữ truyền thống bảo thủ nhất của Cơđốc giáo – đã trở thành một tôn giáo độc tôn của các nước phong kiến Tây Âu. Sựthống trị của uy quyền phong kiến và thần quyền giáo hội đã cản trở sự phát triển củakhoa học và kỹ thuật. Triết học cũng bị phụ thuộc vào thần học. Bản chất của CNDVgắn liền với khoa học, thời kì này đã không có điều kiện để phát triển. Trong thời đạiphong kiến, tôn giáo và thần học là hệ tư tưởng thống trị trong đời sống tinh thần củaxã hội. Tôn giáo đã bắt những hình thái khác của của ý thức xã hội phải phụ thuộc vàonó. Ăng-ghen viết: “Nhà thờ với việc chiếm hữu ruộng đất theo lối phong kiến của nólà mối liên hệ thực tế giữa các nước khác nhau; tổ chức nhà thờ theo lối phong kiến đãdùng tôn giáo để bảo vệ nhà nước phong kiến quý tộc. Thêm vào đó, giáo sỹ là giaicấp độc nhất có học thức. Do đó mà tín điều của nhà thờ tất nhiên là yếu tố xuất phátvà là cơ sở của mọi sự suy nghĩ. Pháp luật, khoa học tự nhiên, triết học – tất cả nộidung của các khoa học đó đều được trình bày sao cho phù hợp với học thuyết của nhàthờ. Vai trò của tôn giáo biểu hiện đặc biệt ở chỗ nó làm chủ ý thức của quần chúngnhân dân và dùng sự áp bức về tinh thần của nó để ủng hộ sự bóc lột tàn tệ của bọnphong kiến. Điều đó giải thích vì sao giai cấp nông dân hết sức đông đảo nhưng “tốităm về trí tuệ” và bị tước hết mọi quyền hành”… Như vậy, thời kỳ này không chỉ có phong kiến quý tộc giữ vai trò thống trị màgiới tăng lữ, giáo hội và nhà thờ đã thiết định được một sức mạnh chưa từng có của Trang 10Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đạithần quyền, có khả năng chi phối cả quyền lực chính trị. Bởi vậy trong suốt nhiều thếkỷ, triết học và khoa học đã trở thành nô tì của thần học, tồn tại và hiện thân trong vaingười ca tụng, biện minh cho các tín nhiệm của tôn giáo, phản bác, loại bỏ các tưtưởng dị giáo, đa thần và các quan niệm vô thàn tiến bộ. Tình hình này đã cắt nghĩa sựđồng quyền của giáo hội trong văn học và giáo dục. Các tín điều của tôn giáo là nhữngnguyên lý của giáo dục, là cơ sở của thế giới quan và nhân sinh quan. Từ thế kỷ X đã diễn ra nhiều cuộc Thập tự chinh với mục đích là xâm chiếm,cướp đoạt của cải của các nước phong kiến nhỏ ở Phương Đông (vùng vịnh Ả Rập)nhưng lại núp dưới danh nghĩa bảo vệ tôn giáo, chống bọn tà giáo, giải phóng vùng đấtthánh… Những cuộc chiến tranh tôn giáo này đã đem lại những kết quả ngoài mongmuốn của những người khởi xướng ở chỗ là đã tạo nên sự giao lưu văn hoá Đông-Tâytác động mạnh mẽ đến sự phát triển tư tưởng, khoa học và kinh tế ở Tây Âu.

Xem thêm: Cách Sửa Lỗi Font Chữ Trong Excel 2010, 2013, 2016, 2019, Cách Sửa Lỗi Font Chữ Trong Word Và Excel

Xem thêm: Lí Luận Văn Học Về Tác Phẩm Văn Học, Những Câu Lí Luận Văn Học Dùng Làm Văn

Thiên vănhọc và toán học phát triển khá mạnh vào thế kỷ XIII; cơ học, vật lý học, hoá học hìnhthành mà tiêu biểu là Lêônarơ Phibômátchi, Anbécphôn Bônstết, Rôgie Bêcơn. Sự phát triển kinh tế đã dẫn đến đòi hỏi gia tăng sự hiểu biết. Tình trạng mùchữ, thất học, sống đơn điệu của các lãnh địa không thể tiếp tục duy trì. Vì vậy chỉtrong vòng hai thế kỷ (XII, XIII) ở Tây Âu hàng loạt các trường đại học đã ra đời. Tóm lại, từ lập trường DVBC mà xét thì thời kỳ trung cổ không phải là quátrình đứt đoạn của lịch sử mà là một thời kỳ “trong nỗi đau đớn đã sinh ra một nền vănminh mới, tạo cơ sở cho sự ra đời của những bộ tộc hiện đại chuẩn bị cho lịch sửtương lai ở Châu Âu”. I.2.2. Nội dung, đặc điểm chính Thứ nhất, sự phát triển của những tư tưởng triết học các nước Tây Âu thờiTrung cổ bị chi phối rất mạnh bởi tư tưởng tôn giáo và thần học. Theo Ăngghen, trongthời kỳ Trung cổ ở Tây Âu, triết học chỉ là “đầy tớ”, “con sen” cho thần học. bởi vìnhiệm vụ của triết học là giải thích đúng đắn và chứng minh về mặt hình thức chonhững tín điều tôn giáo do nhà thờ Kitô giáo thống trị, đứng đầu là Giáo hoàng La Mãđặt ra. Đây là thời kỳ lịch sử mà tiếng nói “trí tuệ và lương tri nhân loại” bị áp đảo bởisự tuyên truyền của giáo hội về đức tin nơi Thiên chúa. Đây cũng là thời kỳ các nhàthần học được phép tuyên bố rằng mọi tri thức của nhân loại đều có thể rút ra từ Kinhthánh (Cựu ước và Tân ước); rằng tất cả những gì trái với kinh thánh đều đáng nguyềnrủa và xử tội. Trang 11Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại Thứ hai, sự tồn tại và phát triển mạnh mẽ của tư tưởng triết học kinh viện (chủnghĩa kinh viện) cũng là một nét nổi bật của thời kỳ Trung cổ ở Tây Âu. Triết học thờikì này giải quyết các vấn đề xa rời thực tế cuộc sống. Vấn đề trung tâm mà các nhàkinh viện chú ý nghiên cứu là vấn đề mối quan hệ giữa tri thức và niềm tin (tôn giáo).Những căn cứ để triết học kinh viện “luận chứng” chính là những tín điều trong cáccuốn kinh thánh, chứ không phải là những kiến thức khoa học, không phải là thực tiễnquan sát và thí nghiệm của khoa học như giai đoạn sau này, cũng không phải là thựctiễn kinh tế xã hội hiện thực. Bởi vậy, những luận chứng của nó mang tính “sáo rỗng”hình thức mà thiếu đi nội dung hiện thực của cuộc sống sinh động. Triết học kinh việnlà triết học chính thức của giai cấp phong kiến, đã kìm hãm sự phát triển của khoa họcvà triết học duy vật. Thứ ba, cuộc đấu tranh giữa hai phái Duy thực và Duy danh cũng là đặc trưngcủa tư tưởng triết học Trung cổ Tây Âu. Cuộc đấu tranh giữa hai phái trên chứa đựngkhả năng phát triển tiếp tục hai khuynh hướng cơ bản trong triết học- chủ nghĩa duytâm và chủ nghĩa duy vật.Phái Duy thực luận chứng về mặt triết học sự tồn tại có thật, duy nhất của cái chung;còn phái Duy danh thì ngược lại, chứng minh cho sự tồn tại duy nhất, có thật của cáiriêng. Phái Duy danh có khuynh hướng duy vật, phái Duy thực lại có xu hướng duytâm về triết học. Thứ tư, con người – sinh linh bé nhỏ, tội nghiệp, thụ động, trĩu nặng trong tộitổ tông, ăn năn sám hối trong kiếp làm người” I.2.3. Các triết gia tiêu biểu I.2.3.a. Ôguýtxtanh (354-430) Ông sinh ở Taghết (Bắc Phi), nay thuộc Angiêri; là giáo chủ, nhà văn, nhà triếthọc. Ông viết một loạt tác phẩm: “Sự thú tội”, “Về thành đô của Thượng đế”, “Vềnhững tà đạo”, “Về sự bất tử của linh hồn”, “Chống các nhà hàn lâm viện “v.v. Tư tưởng cơ bản trong học thuyết triết học của ông là: Toàn bộ thế giới là doThượng đế sáng tạo ra và được nhận thức bởi thượng đế. Thượng đế có sức mạnh vạnnăng, có quyền lực tuyệt đối; thượng đế là “Bác sĩ của trái tim mình”, ý chí của conngười là tự do, song nằm trong giới hạn tiền định của Thượng đế; quá trình nhận thứccủa con người là quá trình nhận thức của Thượng đế. Thượng đế là chân lý tối cao. Trang 12Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại Theo Ôguýtxtanh, chỉ có ơn huệ tối cao của “Thượng đế, mà đại biểu trên tráiđất là giáo hội mới cứu vớt được đời sống tương lai. Bởi vì, toàn bộ lịch sử là cuộcđấu tranh giữa những người theo thần linh để củng cố “Thành phố thần thánh” vànhững người theo quỷ dữ để tổ chức ra “thành phố trần gian”. Vì vậy phải có uy thếcủa quyền lực tinh thần đối với quyền lực thế tục, cần có uy quyền thế giới của giáohội. Tuy nhiên, trong quan điểm triết học của Ôguýtxtanh cũng bộc lộ những mâuthuẫn không thể giải quyết được. Một mặt, ông thừa nhận Thượng đế sáng tạo ra tấtcả; nhưng mặt khác ông lại cho rằng “không có Thượng đế trong các sự vật cảm biết”.Thí dụ, khi quan sát giới tự nhiên thấy vẻ đẹp của thân thể, sự rực rỡ của ánh sáng, sựdịu dàng của âm điệu, mùi thơm của hoa lá v.v. ông cho rằng nó không được đánh giábởi Thượng đế. Tóm lại, Ôguýtxtanh là nhà triết học ra sức bảo vệ tôn giáo, chống khoa học vàtriết học duy vật. I.2.3.b. Giăngxicốt Ơrigiennơ (810 – 877) Là người Ai Len, là một trong những nhà tư tưởng nổi tiếng thời Trung cổ, làngười theo chủ nghĩa duy thực triệt để. Ông viết một loạt tác phẩm nổi tiếng như: “Vềsự tiền định của Thượng đế”, “Về sự phân chia giới tự nhiên” v.v. – Trong triết học của Ơrigiennơ nổi lên một số vấn đề sau: + Triết học của ông là một hệ thống duy tâm tìm cách kết hợp chủ nghĩaPlatonvới Thiên chúa giáo. Ông nói; “Triết học chân chính và tôn giáo chân chính làmột”. +Trung tâm trong học thuyết của ông là chứng minh cho sự tồn tại và vai trò tốicao của Thượng đế đối với đời sống con người và giới tự nhiên.Theo ông, bản thânquá trình thế giới là sự giáng thế liên tục của Thượng đế. Như vậy đó đã bao hàmnhững nhân tố phiếm thần luận. Trong tác phẩm “Về sự phân chia giới tự nhiên”, ôngđã chia sự phát triển của giới tự nhiên qua 4 giai đoạn: Giai đoạn một, giới tự nhiênbiểu hiện như là vật vừa được sáng tạo- đó là Thượng đế được xem như cơ sở đầu tiêncủa quá trình thế giới. Giai đoạn hai, giới tự nhiên biểu hiện như là vật vừa sáng tạo,vừa được sáng tạo – đó là “con” của Thượng đế – là kẻ trung gian giữa Thượng đế vàthế giới. Giai đoạn ba, giới tự nhiên biểu hiện như là vật được sáng tạo – đó là thế giớicác sự vật cụ thể, thế giới muôn loài trong đó có con người. Giai đoạn bốn, giới tự Trang 13Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đạinhiên biểu hiện là vật không phải sáng tạo, cũng không được sáng tạo – đó là Thượngđế, nhưng ở đây Thượng đế được xem như mục đích của quá trình thế giới. + Triết học của G. Ơrigiennơ đã trình bày mối quan hệ giữa lòng tin và lý trí -một vấn đề trung tâm của triết học Trung cổ. Theo ông, giữa lòng tin và lý trí là hoàntoàn có thể dung hợp được; nếu phủ nhận lý trí đề cao tôn giáo hoặc đề cao lý trí phủnhận tôn giáo đều là nguy hiểm cho nhà thờ. + Về nhận thức luận, ông cho rằng cái chung có trước cái riêng và cơ sở của cáiriêng; cái chung là cái bản chất của sự vật; bởi vì các sự vật đều bắt nguồn từ cáichung và cái chung chứa đựng các sự vật bên trong. Ở đây bộc lộ rõ tính chất duytâm trong nhận thức luận ở Ơrigiennơ. Như vậy, toàn bộ học thuyết của G. Ơrigiennơ là sự tiếp tục của quan điểmPlaton dưới hình thức mới. Tuy nhiên, tất cả những điều đó đã làm cho phái tôn giáochính thống nghi ngờ những tác phẩm của ông và cuối cùng những tác phẩm của ôngbị chính thức kết án là “những tà thuyết nguy hiểm” cổ vũ “Phái dị giáo” nên đã bị đốt. I.2.3.c. Pie Abơla (1079 -1142) Là người Pháp, giảng viên nổi tiếng ở các trường đại học Pa-ri. Ông là ngườitheo chủ nghĩa duy danh. Trong việc giải quyết mối quan hệ giữa lòng tin và lý trí, ông đề cao vai trò củalý trí: Lòng tin phải lấy lý trí làm cơ sở. Bởi vì, theo ông, nguyên lý xuất phát là “hiểuđể mà tin”, và lý trí cho ta những phương tiện chính xác để vạch ra toàn bộ nội dungcủa chân lý tôn giáo và câu trả lời đúng đắn về một tín điều tôn giáo nào đó là xácđáng hay không xác đáng. Nhiệm vụ của sự tìm kiếm triết học là vạch ra và lập luậnchân lý, bởi lẽ “sự linh cảm” không thể là tiêu chuẩn cho tính chân lý của các thànhquả của lý trí, trái lại lý trí mới bảo đảm cho những điều linh cảm. Pie Abơla cho rằng: Khái niệm chung không tồn tại bên ngoài sự vật cụ thể,không có đời sống độc lập, nhưng nó không tồn tại trong bản thân các sự vật; kháiniệm chung cũng không nằm trong bản thân từ ngữ, mà nằm trong ý nghĩa của từ ngữ. Như vậy, triết học của Pie Abơla ở mức độ nhất định đã báo hiệu sự xuất hiệnmột khoa học thực nghiệm của giai đoạn mới, phần nào xa lìa tín điều chính thống củanhà thờ. Nhà thờ gọi ông là kẻ “chống chúa trời”, là kẻ tà đạo. I.2.3.d. Rôgiê Bêcơn (khoảng 1214 – 1294) Trang 14Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại Là người Anh, một tu sĩ đã phải sống 14 năm trong các nhà giam của Giáo hội.Ông đóng một vai trò là người đi tiên phong trong khoa học thực nghiệm của thời đạimới. Triết học của Rôgiê Bêcơn cũng đóng một vai trò quan trọng trong cuộc đấutranh chống triết học kinh viện; chống giáo hội, lên án bọn giáo sỹ và sự áp bức củagiai cấp phong kiến, bênh vực quyền lợi của nhân dân; song không chống tôn giáo nóichung. Rôgiê Bêcơn đã đưa ra quan niệm mới về đối tượng của triết học. Theo ông,triết học là khoa học lý luận chung giải thích mối quan hệ giữa các khoa học bộ phậnvà đem lại cho các khoa học đó những quan điểm cơ bản; còn bản thân triết học đượcxây dựng trên thành quả của các khoa học đó. Sức mạnh và bản chất của học thuyết R. Bêcơn chủ yếu là sự phê phán phươngpháp kinh viện chủ nghĩa. Ông cho rằng: phải dựa vào kinh nghiệm để “đạt tới chỗnhận thức nguyên nhân của hiện tượng” để thay thế cho cái lõi rỗng tuếch, hình thứcchủ nghĩa của phương pháp kinh viện. Theo R.Bêcơn con đường nhận thức chân lý gặp bốn trở ngại do triết học kinhviện gây ra: một là, sự sùng bái trước cái uy tín không có cơ sở; hai là, thói quen thừanhận những quan niệm được coi là rõ ràng; ba là, tính vô căn cứ của những đánh giáthuộc về số đông và bốn là, sự thông thái giả tạo của các học giả. Theo R.Bêcơn, nguồn gốc của nhận thức là uy tín, lý trí và kinh nghiệm, nhưnguy tín phải được chứng minh bằng kinh nghiệm và thực nghiệm, nếu không chỉ là lýtrí ngụy biện, giáo điều, vô ích. Ông coi kinh nghiệm là tiêu chuẩn của chân lý, thướcđo của lý luận: đồng thời ông rất coi trọng tri thức khoa học bởi lẽ “không có sự nguyhiểm nào lớn hơn sự ngu dốt”. Việc coi kinh nghiệm là thước đo chân lý là bước ngoặtquan trọng trong lý luận về nhận thức. Tư tưởng của R.Bêcơn là tiếng chuông báohiệu sự kết thúc của chủ nghĩa kinh viện và mở đầu cho thời kỳ khoa học thựcnghiệm. Chính đây là sự tiến bộ của thời ông và có tác dụng chống chủ nghĩa kinhviện. Khác với chủ nghĩa kinh viện chính thống chuyên nghiên cứu thần học,R.Bêcơn chủ yếu hướng sự nghiên cứu của mình vào khoa học tự nhiên. Do đó ôngcoi khoa học thực nghiệm là chúa tể của khoa học và ông đã có nhiều đóng góp chocác ngành khoa học này. Trang 15Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại Triết học của R. Bêcơn bộc lộ những xu hướng duy vật, ông nắm bắt đượcnhững biến đổi xã hội chỉ vừa mới bắt đầu xảy ra và đi trước thời đại ông trong nhữngước mơ và ý tưởng về sự tiến bộ của khoa học. Vì vậy, ông luôn bị nhà nước phongkiến và giáo hội truy nã, cầm tù. Triết học R. Bêcơn có nhiều tư tưởng tiến bộ, nhưng không thoát ra khỏi hạnchế của thời đại mình – thời đại thống trị của tôn giáo và nhà thờ; ông đã tuyên bố sựphụ thuộc của triết học vào lòng tin; ông nghiên cứu về “tính chất rõ ràng của tưtưởng” xuất phát từ mẫu mực đầu tiên của Thượng đế, và về “lý trí hoạt động tiênnghiệm”. Ông là một triết gia, một nhà khoa học người Anh, tiến sĩ thần học đại học tổnghợp Paris. Tác phẩm chính là: – Về sư kéo dài sự sống của con người – Chỉ dẫn để nghiên cứu thần học – Chỉ dẫn để nghiên cứu triết học – Tiểu phẩm ca ngợi toán học – Về cầu vồng – Triển vọng – Về sai lầm của các bác sĩ… I.2.3.e. Tô mát đa canh (1225-1274) Sinh ở Italia, là nhà thần học, nhà triết học kinh viện nổi tiếng; Ngoài ra ôngcòn nghiên cứu những vấn đề pháp quyền đạo đức, chế độ nhà nước và kinh tế. Triếthọc của ông được đạo Thiên chúa coi là triết học duy nhất đúng đắn và lấy làm hệ tưtưởng của mình. Tômát Đacanh nghiên cứu nhiều lĩnh vực: thần học, triết học, pháp quyền, đạođức, chế độ nhà nước, kinh tế. Với 18 cuốn sách, trong tuyển tập của ông hợp thànhbộ bách khoa toàn thư về hệ thống tư tưởng thống trị thời trung cổ hưng thịnh. Là đại biểu của phái duy thực trong giai đoạn hưng thịnh của phái duy thựctrong giai đoạn hưng thịnh của chủ nghĩa kinh viện. Học thuyết của ông được thừanhận là triết học chính thức duy nhất của Giáo hội Thiên chúa. Tômát Đacanh coi đối tượng của triết học là nghiên cứu “chân lý của lý trí”,còn đối tượng của thần học là nghiên cứu “chân lý của lòng tin tôn giáo”. Thượng đếlà khách thể cuối cùng của triết học và thần học, cho nên không có mâu thuẫn giữa Trang 16Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đạithần học và triết học. Nhưng triết học thấp hơn thần học, giống như lý trí của ngườithấp hơn “lý trí của thần”. CNDT của Tômát Đacanh thể hiện một cách công khai vớiquan điểm cho rằng, giới tự nhiên do Trời sáng tạo ra từ hư vô. Sự phong phú, hoànthiện và trật tự của giới tự nhiên được quyết định bởi sự thông minh của Trời. Trật tựđó được Trời quy định theo thứ bậc như sau: bắt đầu từ các sự vật không có linh hồn,tiến qua con người, tới các thần thánh và cuối cùng là bản thân Chúa Trời. Mỗi bậcdưới đều cố gắng đạt tới bậc trên, toàn bộ hệ thống mong tiến tới Chúa Trời. Conngười do Chúa Trời tạo ra theo “hình dáng của mình” và sắp xếp theo những đẳng cấpkhác nhau. Nếu người nào vượt ra khỏi đẳng cấp của mình là có tội với Chúa Trời.Chính quyền nhà vua là thừa lệnh “ý của Trời”. Quyền lực tối cao bao trùm hết thảythuộc về giáo hội. Đứng trên lập trường duy thực ôn hoà, Tômát Đacanh giải quyết vấn đề bảnchất của cái chung. Ông cho rằng cái chung tồn tại trên ba phương diện: Thứ nhất, cái chung tồn tại trước sự vật trong trí tuệ của Chúa Trời như là hìnhmẫu của sự vật riêng lẻ. Thứ hai, cái chung tồn tại trong các sự vật riêng lẻ. Thứ ba, cái chung được tạo ra bằng con đường trừu tượng hoá của trí tuệ conngười từ các sự vật riêng lẻ. Về lý luận nhận thức, Tômát Đacanh cho rằng nhận thức diễn ra trong chủ thểnhờ tiếp thu ở khách thể những gì giống với chủ thể, chứ không phải mọi tồn tại củakhách thể đều được tiếp thu; đó là hình ảnh của sự vật, chứ không phải bản thân sựvật. Ông đã chia “hình dạng” thành hình dạng cảm tính và hình dạng lý tính, trong đóhình dạng lý tính cao hơn hình dạng cảm tính. Bởi vì, nhờ nó ta mới biết được cáichung chứa đựng nhiều thực thể riêng biệt, còn hình dạng cảm tính cũng có vai tròquan trọng, bởi vì nhờ nó cảm giác trở nên cảm thụ tích cực.Như vậy, lý luận nhận thức của Tômát Đacanh áp dụng học thuyết về “hình dạng” củaArixtốt, nhưng loại bỏ cái sinh khí, cái sống động, sự tìm tòi chân lý trong học thuyếtcủa Arixtot; là một bước tiến trong triết học kinh viện Trung cổ. Là đại biểu của phái duy thực trong giai đoạn hưng thịnh của phái duy thựctrong giai đoạn hưng thịnh của chủ nghĩa kinh viện. Học thuyết của ông được thừanhận là triết học chính thức duy nhất của Giáo hội Thiên chúa. I.2.3.f. Đơn Xcốt (1265 – 1308) Trang 17Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại Ông là một trong những nhà kinh viện, nhà duy danh luận lớn nhất thế kỉXIII. Ông sinh trưởng ở Anh, tốt nghiệp và là giáo sư của trường đại học Ôcxpho. Về mặt triết học, cũng như các nhà tư tưởng khác thời trung cổ, Đơn Xcốt coivấn đề mối quan hệ giữa triết học và thần học là vấn đề chủ yếu. Theo ông, đối tượngcủa thần học là nghiên cứu Thượng đế, còn đối tượng của triết học (siêu hình học) làtồn tại (hiện thực khách quan- vật chất, giới tự nhiên). Về quan hệ giữa lý trí và lòngtin tôn giáo thì ông đề cao vai trò của lòng tin hơn lý trí. Về vấn đề tồn tại của Thượng đế, Đơn Xcốt đã giải quyết từ lập trường thầnhọc. Theo ông, vì thượng đế là một tồn tại bất tận, cho nên chứng minh về sự tồn tạicủa thượng đế có nghĩa là chứng minh rằng “cái tồn tại bất tận” đó là có. Trong học thuyết triết học của mình, ông cho rằng ngoài Thượng đế là hìnhthức thuần túy phi vật chất ra thì mọi thực thể còn lại (kể cả tinh thần và thiên thần)đều là vật chất hoặc bao gồm cả hình thức và vật chất. Song về căn bản, triết học củaông vẫn là duy tâm, chưa phải duy vật. Là một nhà duy danh luận, trong học thuyếtcủa mình, Đơn Xcốt cũng nghiên cứu vấn đề cái chung. Ông cho rằng cái chungkhông chỉ là sản phẩm của lý trí, nó là cơ sở trong bản thân các sự vật. Trong lĩnh vựcnhận thức luận, ông đã đề cập vấn đề vai trò của yếu tố tinh thần, của lý trí và ý chí.Về vai trò của lý trí và ý chí, ông đã chó rằng thống trị mọi dạng hoạt động của conngười không phải là lý trí mà là ý chí. Ý chí cao hơn lý trí, và hơn nữa ở Thượng đếthì ý chí trở thành tự do. Về vấn đề quan hệ giữa lý trí và lòng tin ông cho rằng lý trí và lòng tin, tri thứcvà thần học là không thể và không nên dung hòa, vị trí hàng đầu phải thuộc về lòng tincòn lý trí đóng vai trò phụ thuộc. I.2.3.g. Guyôm Ốccam (1300 – 1350) Là nhà văn, nhà chính tri nổi tiếng thời đại mình, nhà thần học và triết học kinhviện Anh, nhà tư tưởng của giai cấp phong kiến thế tục trong cuộc đấu tranh chốngGiáo hoàng. Gắn với các hoạt động có tính chất chính trị chống Gíao hoàng, bảo vệ nhànước phong kiến thế tục là hoạt động triết học của Ôccam. Triết học của ông đã chốngđối kịch liệt hệ tư tưởng chính thống (hệ tư tưởng Đạo Thiên Chúa ). Trong vấn đềtrung tâm của triết học trung cổ – vấn đề mối quan hệ giữa lòng tin và lý trí, giữa linhcảm và tri thức, Ốccam đã làm sâu sắc thêm những quan điểm của Đơn Xcốt. Trang 18Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại Tuy là người bảo vệ nhiệt tâm lòng tin tôn giáo như mọi nhà triết học khác ởthời đại phong kiến, nhưng ở Ốccam chúng ta cũng thấy rõ sự tan vỡ của chính cơ sởtriết học kinh viện và sự mất tác dụng của nó. Bởi vì, cái trục của triết học Ốccam làchủ nghĩa duy danh có khuynh hướng duy vật. Là một nhà duy danh luận, Ốccam cho rằng chỉ có những sự vật riêng lẻ, đơnnhất là tốn tại thực. Khái niêm, danh từ theo Ốccam chỉ là những kí hiệu của sự vật. Trong lý luận nhận thức của mình, Ốccam cũng chia nhận thức làm 2 loại:nhận thức trực giác (ông hiểu là nhận thức kinh nghiệm) và nhận thức trừu tượng.Nhận thức trực giác được ông đặt cao hơn nhận thức trừu tượng, nó bao gồm cảm tínhvà sự tự quan sát. Trong lý thuyết đạo đức Ốccam cũng phát triển quan điểm của Đơn Xcốt. Ôngphủ nhận sự khác nhau tuyệt đối giữa điều thiện và điều ác. Vì theo ông ý chí củaThượng đế có thể biến hành vi tội lỗi của con người thành hành vi tốt. I.2.4. Nhận định chung Trong việc giải quyết mối quan hệ giữa lòng tin và lý trí, có nhà triết học đề caovai trò của lý trí: Lòng tin phải lấy lý trí làm cơ sở. Bởi vì, nguyên lý xuất phát là”hiểu để mà tin”, và lý trí cho ta những phương tiện chính xác để vạch ra toàn bộ nộidung của chân lý tôn giáo và câu trả lời đúng đắn về một tín điều tôn giáo nào đó làxác đáng hay không xác đáng. Nhiệm vụ của sự tìm kiếm triết học là vạch ra và lậpluận chân lý, bởi lẽ “sự linh cảm” không thể là tiêu chuẩn cho tính chân lý của cácthành quả của lý trí, trái lại lý trí mới bảo đảm cho những điều linh cảm. Như vậy, triếthọc thời kì này ở mức độ nhất định đã báo hiệu sự xuất hiện một khoa học thựcnghiệm của giai đoạn mới, phần nào xa lìa tín điều chính thống của nhà thờ. Nhìn chung, chủ nghĩa kinh viện là triết học chính thống của xã hội phong kiếnTây Âu thời Trung cổ. Đặc điểm chủ yếu nhất của khuynh hướng này là: phục tùngthần học, theo chủ nghĩa duy tâm, phương pháp suy luận hình thức chết cứng, chủnghĩa tín ngưỡng đối lập với tư tưởng khoa học… Mục đích cao nhất của chủ nghĩakinh viện là phục vụ tôn giáo và nhà thờ, do đó đã xuyên tạc học thuyết của các nhàtriết học tiến bộ thời cổ đại, đặc biệt là triết học của Arixtốt. Trong sự thống trị khắc nghiệt của tôn giáo và thần học, thời kỳ này cũng xuấthiện cuộc đấu tranh của các xu hướng duy vật trong triết học và trong các phong trào”tà giáo” chống chủ nghĩa ngu dân của nhà thờ. Các trào lưu tự nhiên bằng thực Trang 19Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đạinghiệm xuất hiện, sự giải phóng khoa học tự nhiên thoát khỏi ách thống trị của thầnhọc bắt đầu. Tất cả những cái đó đã chuẩn bị cho sự sụp đổ của chủ nghĩa kinh viện vàvà triết học trong thời đại Phục hưng. I.3. TRIẾT HỌC TÂY ÂU PHỤC HƯNG VÀ CẬN ĐẠI I.3.1 Đặc điểm kinh tế – xã hội, khoa học và văn hoá Khi bóng đêm của đêm trường Trung cổ bị những ánh sáng bình minh của nềnvăn minh công nghiệp chiếu rọi thì Tây Âu đã có những bước chuyển dữ dội, chuyểnsang thời kỳ phục hưng, thời đại phục sinh những giá trị của nền văn hoá cổ đại Hy Lađã bị lãng quên trong nền chuyên chế phong kiến kéo dài hàng nghìn năm ở Châu Âu. Xét về bản chất kinh tế, thời kỳ phục hưng là giai đoạn quá độ của PTSXTBCN. Đây là thời kỳ tích luỹ tư bản đầu tiên được mở rộng. Người nông dân bị đuổira khỏi ruộng đất của họ, bạo lực của kẻ cường quyền đã tách người lao động ra khỏitư liệu sản xuất. Các công trường thủ công dần dần át cách làm ăn kiểu phường hộiphong kiến. Các chủ thủ công nghiệp ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng trongnền kinh tế, họ trở thành giai tầng mới nắm giữ sức mạnh kinh tế – giai cấp tư sản;trong khi người nông dân do không còn ruộng đất phải ra thành phố kiếm kế sinh nhaibằng cách làm thuê cho các công trường, xưởng thợ. Họ là tiền thân của giai cấp vôsản sau này. Chế độ phong kiến với nền sản xuất nhỏ và các đạo luật hà khắc của nó đãbước vào giai đoạn lụi tàn. Phong trào chống phong kiến của nông dân, thợ thủ côngtrào dâng khắp Châu Âu. Giai cấp tư sản trở thành kẻ đồng minh. Người ta không chỉđòi xoá bỏ đặc quyền, đặc lợi của giai cấp phong kiến, những chướng ngại trên conđường phát triển theo xu hướng TBCN mà còn chĩa mũi nhọn vào giáo hội La Mã,thành luỹ tinh thần của chế độ phong kiến. Đặc điểm của phong trào đã ảnh hưởngđến toàn bộ cuộc đấu tranh tư tưởng lúc bấy giờ, bao gồm cả sự phát triển của triếthọc. Thế giới quan của giai cấp tư sản thể hiện dưới hình thức duy vật và vô thần nàycàng rõ nét. Do đòi hỏi của thực tiễn sản xuất vật chất, các ngành khoa học tự nhiên bắt đầuphát triển và đây cũng là thời kỳ gặt hái bội thu về các thành tựu khoa học kỹ thuậtnhư sử dụng năng lượng nước, dệt, khai mỏ, luyện kim, chế tạo vũ khí, in ấn, hànghải… Chẳng hạn với việc sử dụng năng lượng nước đã cho phép thay thế dần sứcngười và sức súc vật trong sản xuất. Trang 20

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Tiểu luận