tiểu luận về bệnh trầm cảm

1. Lý do chọn đềtài: Cuộc sống xã hội hiện đại – xã hội công nghiệp hoá – hiện đại hoá cuốn con người vào tất cảcác hoạt động mà nó tồn tại ở đó, đòi hỏi con người có một sựtập trung cao độ, cuộc sống diễn ra với tốc độchóng mặt, nhịp điệu hối hả, sôi động đòi hỏi con người luôn phải cốgắng không ngừng mà vẫn không đủthời gian để đáp ứng với những yêu cầu khắc nghiệp mà xã hội hiện đại đặt ra, nó bắt chúng ta phải lao động nhiều cảchân tay và trí óc, bắt buộc con người phải hoạt động mọi lúc mọi nơi, và hoạt động ởmọi thời điểm trong cuộc sống của mình. Con người hiện đại ít có thời gian dành riêng cho bản thân mình, cho những nhu cầu riêng tưcủa mình, cho gia đình mình Theo W.H.Auden gọi kỉnguyên hiện đại là “ Kỉnguyên của lo âu”, bởi vì muốn sống và tồn tại ởxã hội công nghiệp đó mỗi người phải bương chải, tảo tần mới đảm bảo được cuộc sống vật chất no đủ được, thếnhưng khi mà đời sống kinh tếno đủ, thì sức khoẻtinh thần (Tâm lý) của con người ( Sức khỏe tinh thần là một trong bốn thành phần chính yếu của sức khoẻcon người) ngược lại nó bịcăng thẳng, ức chếmạnh, làm nảy sinh nhiều căn bệnh xã hội nguy hiểm liên quan đến đời sống và sức khoẻtinh thần, một trong những căn bệnh nguy hiểm đã, đang gặp phải và rất phổ biến ởxã hội ngày nay là BỆNH TRẦM CẢM. Bệnh trầm cảm là một căn bệnh thuộc vềsức khoẻtinh thần không chừa bất cứmột ai, không phân biệt độtuổi, hoàn cảnh kinh tế, y ếu tốchủng tộc, giới tính Với đời sống xã hội nhưHoa Kỳ, giới chuyên môn y khoa cho biết có khoảng 12% phụnữvà 7% nam trong dân sốcủa quốc gia này mắc chứng trầm cảm, bất cứlúc nào ởMỹcũng có khoảng 14 triệu người mắc chứng trầm cảm. Theo Viện quốc gia sức khoẻtâm thần Hoa Kỳnghiên cứu tại 10 quốc gia khác nhau đều cho thấy có kết quảtương tựnhư ởHoa Kỳ. Theo tổ chức y tếthếgiới (WHO) bệnh trầm cảm sẽtrởthành nguyên nhân gây mất sức lao động đứng hàng thứhai trên thếgiới vào năm 2020 và nó sẽlà nguyên nhân hàng đầu gây tàn phế ởnữgiới, và ởthời điểm hiện tại ( 2001 ) có 121 triệu người bịtrầm cảm. ỞVN theo Trần Văn Cường và cộng sự, trầm cảm chiếm 13,2% dân số. Dân sốthếgiới hằng năm có khoảng 5% mắc những chứng bệnh liên quan đến trầm cảm, các nghiên cứu dịch tễlâm sàng riêng của nhiều nước còn cao hơn như: Pháp trong một năm có nam 3,4% và nữ 6,0%, và trong cảcuộc đời có nam 10,7%, nữ22,4% ( Theo Levine và Sellouch 1993); Theo Kielhoz (1974) căn cứvào kết quả điều tra của trên 10.000 thầy thuốc hành nghề ở5 nước Châu Âu ( Áo, Đức, Pháp, Ý, ThuỵSĩ )cho biết có 10% những bệnh nhân đến khám đa khoa có rối loạn trầm cảm và 5% là trầm cảm cơthể. Và 90% các bệnh nhân này đang được các thầy thuốc không chuyên điều trịvà theo dõi. Bệnh trầm cảm gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sựphát triển kinh tế, xã hội hằng năm nhà nước phải trích một phần không nhỏngân quỷ đểnghiên cứu, điều trị, và tuyên truy ền vềphòng ngừa vềbệnh trầm cảm, trầm cảm là triệu chứng ảnh hưởng trực tiếp đến tất cảcác mặt sinh hoạt, tác động lên cá nhân bệnh nhân nhưgiảm khí sắc, mất hứng thú lao động, học tập, dòng tư duy hoạt động chậm chạp hay kém hiệu quả, hành vi, thái độkhông phù hợp với cảbản thân bệnh nhân và các chuẩn mực đạo đức mà xã hội đặt ra, không chỉ ảnh hưởng lên bản thân người bệnh mà còn ảnh hưởng đến những người xung quanh, người thân của họ, bởi vì những cảm giác, tâm trạng buồn chán đơn thuần nó không đủmạnh đểbộc lộhết lên trên bềmặt của nhân cách, hành vi của người bịbệnh. Thếnhưng, hiện nay trầm cảm chưa được nhìn nhận một cách khoa học, chúng ta có thói quen nghĩrằng những cảm giác buồn của người khác sẽ nhanh chóng qua mau, tệhại hơn chúng ta có xu hướng tin rằng đấy là một tâm trạng, cảm giác khá bình thường, nhiều lúc ta không thểtin rằng vì sao một cá nhân bềngoài khoẻmạnh, hoạt bác, yêu đời nhưvậy lại có thểmắc bệnh trầm cảm, TC là một căn bệnh tâm thần lâm sàng và cần được chữa trị kịp thời, càng đểlâu bệnh càng trởnên phức tạp, càng khó điều trịhơn, nếu không điều trịsớm sẽ đểlại m ột di hại tâm lý nặng và nguy cơtựsát cao, đối với chính bản thân người bịbệnh mà còn ảnh hưởng đến xã hội, vì vậy trách nhiệm của bản thân mỗi người là hiểu biết vềnó đểnếu bản thân hay những người xung quanh mắc phải cần giúp họ đến với những cơsởy tếchuyên ngành đểchữa trịkịp thời. Theo giới chuyên môn đánh giá bệnh trầm cảm là một căn bệnh có thểchữa trịvà phòng ngừa được. Thếnhưng thực tếtrong xã hội hiện nay có mấy người khi được hỏi “ Anh chịcó biết gì vềbệnh trầm cảm không?” có ai biết vềnó nhưthếnào? biểu hiện ra sao Hơn nữa trong các công trình nghiên cứu cảtrong và ngoài nước cũng chưa có quan điểm thống nhất với nhau vềcách nhìn nhận, triệu chứng, nguyên nhân gây bệnh Có quan niện cho rằng trầm cảm là do không thoã mãn nhu cầu tình dục, hay trầm cảm là do hậu quảcủa sựgiận dữchính bản thân mình Nhưng thực tiễn biểu hiện và nguyên nhân nào dẫn đến trầm cảm vẫn chưa có bất cứmột lý thuyết, quan niện nào chứng minh cả, mà hiện nay mỗi nhà nghiên cứu khác nhau đều cho rằng quan niệm của mình là đúng đắn cả. Xuất phát từthực tiễn nói trên, tôi tiến hành nghiên cứu đềtài “Biểu hiện bệnh trầm cảm của bệnh nhân ở độtuổi từ18–45 đang điều trịtại Bệnh viện tâm thần Đà Nẵng (BVTTĐN) từtháng 10/08–3/09”nhằm tìm hiểu những biểu hiện BTC thực tếtrên bệnh nhân đang điều trịtại bệnh viện trong thời gian kểtrên, từ đó đưa ra một sốgiải pháp đểnâng cao hiểu biết, hiệu quảtrong công tác điều trị, phòng, chống bệnh trầm cảm trong xã hội. 2. Đối tượng nghiên cứu: Biểu hiện bệnh trầm cảm của những bệnh nhân đang điều trịtại BVTTĐN từtháng 10/2008 – 3/2009. Tiêu chuẩn đểchọn đối tượng vào mẫu: Chọn mẫu thuận lợi trên bệnh nhân đã và đang điều trịtại BVTTĐN trong thời gian từtháng 10/ 08 – 3/09 có đủtiêu chuẩn chẩn đoán là TC theo tiêu chuẩn của DSM, ICD –10 và theo thang đánh giá trầm cảm thu gọn của Beck với cấu trúc 13 đềmục, mỗi m ục có 4 nội dung Tiêu chuẩn chẩn đoán của DSM và ICD – 10 nhưsau: – Giảm cân liên tục. – Sựkhác nhau trong ngày của các triệu chứng (Nặng vềsáng,đêm dễ chịu) – Mất ngủcuối giấc ( Dậy sớm ít nhất 2 giờso với bình thường ). – Rối loạn vận động, thường chậm , đôi khi có kích động trầm cảm. – Không có sức sống, uểoải, m ệt mỏi. – Khí sắc giảm, buồn rầu, thích nơi tối tăm,tránh tiếp xúc với xung quanh. – Mất mọi hứng thú và hoạt động liên quan đến giảm hoạt động cảm xúc. – Các triệu chứng cần phải biểu hiện trong thời gian ít nhất hai tuần.

Đang xem: Tiểu luận về bệnh trầm cảm

Xem thêm: Vở Bài Tập Toán Lớp 4 Trang 79 Tập 1, Giải Vở Bài Tập Toán 4 Trang 79 Tập 1 Câu 1, 2, 3

Xem thêm: Cách Vẽ Đồ Thị Trong Excel 2007 2010, Cách Vẽ Đồ Thị Hàm Số Trong Excel

3. Khách thểnghiên cứu: Bệnh trầm cảm trên bệnh nhân. Khách thểkhảo sát: NC được tiến hành trên 50 BN trong độtuổi từ18- 45 đang điều trịtại BVTTĐN từtháng 10/08- 3/09, thoảmãn yêu cầu các tiêu chuẩn chọn bệnh, không phạm phải các tiêu chuẩn loại trừ. 4. Mục đích nhiên cứu: Nhằm tìm hiểu những biểu hiện bệnh trầm cảm của bệnh nhân trong độtuổi từ18-45 đang điều trịtại BVTTĐN từtháng 10/2008 – 3/2009. Trên cơsở đó đưa ra một sốgiải pháp phù hợp nhằm giúp mọi người hiểu, nhận biết sớm, điều trịhiệu quả, phòng và tránh bệnh trầm cảm trong xã hội. 5. Nhiệm vụnghiên cứu: Hệthống hoá một sốvấn đềlý luận vềbệnh trầm cảm. Tìm hiểu những biểu hiện bệnh trầm cảm trên bệnh nhân trong độ tuổi từ18-45 đang điều trịtại BVTTĐN từtháng 10/08- 3/09. Bước đầu đềxuất một sốgiải pháp nhằm giúp mọi đối tượng nhận biết sớm, điều trịhiệu quả, phòng và tránh bệnh trầm cảm. 6. Phạm vi nghiên cứu: Nội dung: NC những yếu tốthuộc nội hàm của bệnh trầm cảm. Thời gian: NC được tiến hành từtháng 10/2008 – 3/2009. Không gian: Các bệnh nhân trong độtuổi từ18 – 45 đang điều trịtại BVTTĐN từtháng 10/2008-3/2009 ( Nội và ngoại trú). 7. Giảthuyết khoa học: Biểu hiện bệnh trầm cảm trên bệnh nhân, đa dạng, phong phú, phức tạp có sựkhác nhau vềgiới tính, độtuổi, nghềnghiệp. 8. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp lý luận. Phương pháp thực tiễn. Phương pháp quan sát. Phương pháp trắc nghiệm. Phương pháp phân tích tiểu sử. Phương pháp thống kê toán học.

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Tiểu luận