tiểu luận quản lý nhà nước về quốc phòng an ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.73 KB, 15 trang )

Đang xem: Tiểu luận quản lý nhà nước về quốc phòng an ninh

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn chủ đề tiểu luận:
Quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh là một bộ phận rất quan trọng
trong tổng thể quản lý quốc gia của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Quản lý nhà
nước về quốc phòng không phải chỉ là công việc của Bộ Quốc phòng, mà là
của các bộ, ngành và chính quyền từ trung ương đến các địa phương. Chất
lượng, hiệu quả quản lý nhà nước về quốc phòng có vai trò hết sức quan trọng
đối với sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc trong
giai đoạn mới. Quản lý nhà nước về quốc phòng là quá trình điều hành mọi
hoạt động quốc phòng bằng pháp luật, chính sách, kế hoạch và các công cụ
khác của Nhà nước trong mọi lĩnh vực, mọi hoạt động xã hội có quan hệ đến
nhiệm vụ BVTQ, do hệ thống các cơ quan của bộ máy nhà nước từ trung
ương đến cơ sở tiến hành theo chức năng, nhiệm vụ, phạm vi quyền hạn của
mỗi cơ quan, đơn vị. Chủ thể quản lý nhà nước về quốc phòng bao gồm tổng
thể các cơ quan nhà nước, từ trung ương đến cơ sở, trong đó nòng cốt là các
cơ quan quản lý nhà nước. Khách thể quản lý nhà nước về quốc phòng bao
gồm tổng thể các lĩnh vực, các hoạt động xây dựng nền QPTD, tất cả các hoạt
động xã hội có quan hệ đến các cơ quan nhà nước và của toàn dân. Toàn dân
và các đoàn thể quần chúng tích cực tham gia vào các hoạt động quản lý nhà
nước về quốc phòng dưới nhiều hình thức khác nhau theo cơ chế chung Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Như vậy, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về quốc phòng và an
ninh phải được coi là một trong những bài học giữ nước của dân tộc ta hiện
nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước sẽ ngày càng làm cho “Dân giàu, nước mạnh”, và
quá trình đó càng được phát triển trong một môi trường đất nước hòa bình, ổn
định, ý thức và kiến thức quốc phòng của mỗi người dân càng được nâng cao,
mọi người đều sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật xã hội chủ
nghĩa.
2. Đối tượng của tiểu luận:
Đi sâu nghiên cứu, đưa ra những giải pháp để nâng cao hiệu lực, hiệu

quả quản lý Nhà nước về quốc phòng, an ninh ở địa phương, từ đó giúp cho
việc thực hiện đồng bộ những giải pháp cơ bản, giải quyết tốt chức năng,
quyền hạn, phân công và tổ chức thực hiện vận hành tốt nhất cơ chế Quốc
phòng quân sự ở địa phương.
1

Tiểu luận chỉ giới hạn vấn đề nghiên cứu ở những giải pháp cơ bản, dựa
trên cở sở văn bản Nghị quyết số 02 – NQ/Tư của Bộ Chính trị ngày
30/7/1987 và Nghị quyết số 28-NQ/TƯ ngày 22 tháng 9 năm 2008 của Bộ
Chính trị “Về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới”. Một số văn bản có
liên quan về xây dựng quốc phòng quân sự địa phương từ năm 2012 trở lại
đây.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích và đi đến tóm tắt đưa ra
những vấn đề mới, vấn đề đặt ra về những giải pháp để nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý Nhà nước về quốc phòng, an ninh ở địa phương. Từ đó gợi
mở những vấn đề cần nghiên cứu, trao đổi và mở rộng.
4. Gía trị ý nghĩa của tiểu luận:
Nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở địa phương rất nặng nề, đòi hỏi có sự
tham gia của nhiều lực lượng mang tính rất đa dạng, phong phú. Điều đó đòi
hỏi quản lý nhà nước về quốc phòng phải có tính khoa học, tính đồng bộ, tính
pháp lệnh rất cao. Vì vậy, quản lý Nhà nước về quốc phòng, an ninh ở địa
phương trước hết phải thể hiện ở kế hoạch tổng thể và được xác định trong kế
hoạch phát triển kinh tế – xã hội, của từng ngành, từng lĩnh vực trên cơ sở
quan điểm đường lối của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước. Đồng
thời, phải có sự phân công, phân cấp quản lý đúng đắn, phù hợp với yêu cầu,
nhiệm vụ của từng cấp, ngành, của địa phương. Do tính đặc thù nghiêm ngặt
của nhiệm vụ quốc phòng, quân sự trong tình hình mới cần phải xác định rõ

ràng, cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm lãnh đạo, quản lý của từng cấp, ngành,
địa phương; mối quan hệ giữa các cấp, ngành; cơ chế lãnh đạo, điều hành, chỉ
huy trong các tình huống, trong từng nhiệm vụ. Đặt biệt quan trọng để nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về quốc phòng – an ninh ở địa
phương cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp phải có tính khoa học và pháp
lệnh tối ưu.
5. Cấu trúc của tiểu luận:
Tiểu luận gồm:
Mở đầu
1. Cơ sờ lý luận, thực tiễn của nội dung nghiên cứu
2. Giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước về quốc
phòng, an ninh ở địa phương
Kết luận
2

NỘI DUNG
1. Cơ sờ lý luận, thực tiễn của nội dung nghiên cứu
1.1. Cơ sở lý luận:
* Xuất phát từ vị trí, vai trò của quốc phòng, an ninh:
Quốc phòng: Là “Công cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của
toàn dân tộc, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang nhân
dân là nòng cốt”. An ninh:Là trạng thái ổn định, an toàn, không có dấu hiệu
nguy hiểm đe dọa sự tồn tại và phát triển bình thường của cá nhân, tổ chức,
của từng lĩnh vực hoạt động xã hội hoặc của toàn xã hội.
Quốc phòng, an ninh luôn giữ vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng đối với
mọi quốc gia, dân tộc độc lập, có chủ quyền.Quốc phòng, an ninhluôn có vị
trí chiến lược quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN. Quốc phòng, an ninhngày nay, càng có vị trí quan trọng, không
chỉ để sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược, xung đột vũ trang, mà phải

đánh bại chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam.
* Quan điểm chủ nghĩa Mác – V.I.Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, lịch sử xã hội loài người từ khi phân chia
thành giai cấp và đối kháng giai cấp là lịch sử đấu tranh giai cấp. Trong cuộc
đấu tranh giai cấp, giai cấp nào muốn giành và giữ quyền thống trị xã hội
cũng đều phải tổ chức ra lực lượng vũ trang, tổ chức ra quân đội, lãnh đạo
quân đội, tăng cường và xây dựng củng cố quốc phòng, an ninh. Nhà nước,
quân đội, hoạt động quân sự là một hiện tượng xã hội – lịch sử gắn liền với
đấu tranh giai cấp sâu sắc, không có một nền quốc phòng nào phi giai cấp.
Quan điểm Mác – V.I.Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mác –
Ăngghen chỉ rõ giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử là người đào huyệt
chôn chủ nghĩa tư bản và xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Chỉ rõ muốn thực
hiện sứ mệnh lịch sử của mình phải tổ chức sử dụng bạo lực cách mạng để
đập tan Nhà nước, bộ máy bạo lực của giai cấp tư sản giành lấy chính quyền
và bảo vệ thành quả cách mạng. V.I.Lênin chỉ rõ: “Một cuộc cách mạng chỉ có
giá trị khi nào nó biết tự vệ, nhưng không phải cách mạng có thể biết ngay
được cách tự vệ” , “chính vì chúng ta chủ trương bảo vệ tổ quốc, nên chúng ta
đòi hỏi phải có một thái độ nghiêm túc đối với vấn đề khả năng quốc phòng
và đối với vấn đề chuẩn bị chiến đấu của nước nhà” ,
Quan điểm của Chủ tịch hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng: Trung
thành và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác – V.I.Lênin vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam, kế thừa và phát triển kinh nghiệm dựng nước và giữ nước của
dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định quan điểm bạo lực cách mạng,
phải thành lập quân đội công nông, phải xây dựng nền quốc phòng toàn
3

dân.Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực

hiện bằng con đường cách mạng bạo lực bởi vì: Sự thống trị của thực dân đế
quốc ở thuộc địa vô cùng hà khắc, không hề có một chút quyền tự do dân chủ
nào, không có cơ sở nào cho thực hành đấu tranh không bạo lực; “Chế độ
thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ
yếu rồi” , vì thế con đường để giành và giữ độc lập dân tộc chỉ có thể là con
đường cách mạng bạo lực; Cách mạng giải phóng dân tộc là lật đổ chế độ
thực dân phong kiến, giành chính quyền về tay cách mạng, nó phải được thực
hiện bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang. Khi cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược giành thắng lợi, trong Diễn văn mừng Trung ương Đảng,
Chính phủ về Thủ đô ngày 01-01-1955, Người nêu rõ: “Chúng ta phải ra sức
bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình, cho nên chúng ta phải củng cố quốc phòng”.
Kinh nghiệm lịch sử dựng nước và giữ nước hằng nghìn năm của dân
tộc ta đã chứng minh, ở thời đại nào, các Nhà nước Việt Nam cũng rất coi
trọng tăng cường sức mạnh quốc phòng của đất nước. Trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng được cơ
chế, chính sách và biện pháp quản lý Nhà nước về quốc phòng, an ninh, phù
hợp với điều kiện hoàn cảnh của đất nước trong chiến tranh. Vì vậy, đã huy
động được các tổ chức kinh tế, xã hội và nhân dân đóng góp rất lớn sức
người, sức của cho tiền tuyến, cho chiến trường với khẩu hiệu: “Tất cả cho
kháng chiến, tất cả để đánh thắng kẻ thù xâm lược”.
Ngày nay, đất nước ta đã chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên con đường xây dựng CNXH mà
Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Tuy đất nước có hòa bình, có
những thời cơ và vận hội mới, nhưng cũng đang đứng trước những nguy cơ
và thách thức mới. Đảng ta đã chỉ rõ: Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ
xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ
Tổ quốc và các thành quả cách mạng. Bối cảnh cục diện tình hình thế giới
hiện nay, tuy chiến tranh lớn ít có khả năng xảy ra, nhưng ở nhiều khu vực
vẫn còn tiếp tục nổ ra các cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung

đột tôn giáo, sắc tộc… Các nguy cơ mà Đảng ta từng chỉ rõ, đến nay vẫn tồn
tại và diễn biến phức tạp, đặc biệt là tệ nạn tham nhũng, quan liêu, lãng phí.
Như vậy, Đảng ta luôn xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng
tâm, nhưng không tách rời nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong
thời kỳ mới, đòi hỏi Nhà nước ta phải có sự đổi mới quản lý trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực quản lý quốc phòng và an
ninh.
1.2. Thực trạng nội dung nghiên cứu:
Công tác quốc phòng quốc phòng – an ninh ở địa phương trong những
năm qua đã đạt được những thành quả nhất định, củng cố xây dựng nền quốc
4

phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, thế trận an ninh nhân
dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định
cho đất nước phát triển. Nhiều nội dung triển khai đạt kết quả tốt như: Giáo
dục quốc phòng, xây dựng khu vực phòng thủ địa phương…Công tác quản lý
Nhà nước về quốc phòng, kết hợp kinh tế – xã hội với quốc phòng – an ninh
đang từng bước được tiến hành và đi dần vào nề nếp. Tuy nhiên, công tác
quốc phòng an ninh ở địa phương còn bộc lộ một số nhược điểm cần khắc
phục như:
Hệ thống cơ chế, chính sách về quốc phòng – an ninh chưa mang tính
đồng bộ cao, hệ thống pháp luật đó chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của
thực tiễn đặt ra, có mặt chưa có luật điều chỉnh, hoặc là có luật nhưng nhiều
điểm không còn phù hợp vướng mắc trong khâu tổ chức thực hiện.
Tổ chức bộ máy quản lý chuyên trách của Nhà nước về quốc phòng –
an ninh ở các cấp từ Trung ương đến địa phương đã được thiết lập và đi vào
hoạt động, tuy nhiên so với yêu cầu cũng còn bộc lộ những bất cập.
Việc coi trọng và đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục quốc phòng
– an ninh cho toàn dân, toàn bộ hệ thống chính trị, động viên tinh thần tự giác,

tích cực thực hiện nhiệm vụ quốc phòng – an ninh thuộc phạm vi trách nhiệm
của mỗi người, mỗi tổ chức ở địa phương có lúc còn mang tính hình thức, lơ
là.
Chế độ kiểm tra, thanh tra và giải quyết khiếu nại tố cáo; sơ kết, tổng
kết, rút kinh nghiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng – an ninh ở
địa phương nhiều nơi còn chưa được chú trọng, quan tâm đúng mức.
Vì vậy, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về quốc phòng
– an ninh ở địa phương cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, khắc phục
được yếu kém, tồn tại, phát huy tổng thể cả hệ thống chính trị, tính chủ động,
linh hoạt, khoa học theo điều kiện, hoàn cảnh từng địa phương, nhưng phải
bảo đảm tính thống nhất theo Nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của trên.
2. Giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công
tác quốc phòng – an ninh ở địa phương.
2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về quốc phòng – an
ninh
Trong phạm vi quyền hạn, chính quyền địa phương, căn cứ vào những
quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực quốc
phòng – an ninh; căn cứ Nghị quyết, Chỉ thị hướng dẫn của các cơ quan Nhà
nước cấp trên và tình hình mọi mặt của địa phương xác định các kế hoạch về
xây dựng thế trận; xây dựng lực lượng; xây dựng các công trình quốc phòng –
an ninh của địa phương; xây dựng kế hoạch huy động tiềm lực về mọi mặt để
xây dựng khu vực phòng thủ, tổ chức thực hiện các chính sách có liên quan
đến quốc phòng – an ninh; ban hành văn bản qui phạm pháp luật hướng dẫn
5

thực hiện nhiệm vụ quốc phòng – an ninh ở địa phương nhằm xây dựng nền
quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững chắc.
Pháp luật, cơ chế, chính sách về quốc phòng – an ninh là những vấn đề
lớn có tác động trực tiếp đến hiệu quả quản lý Nhà nước về quốc phòng – an

ninh. Trong thời gian vừa qua, bên cạnh việc tập trung đầu tư xây dựng hoàn
thiện hệ thống pháp luật về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đảng, Nhà nước
luôn trú trọng xây dựng hệ thống văn bản qui phạm pháp luật phục vụ nhiệm
vụ tăng cường quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc như: Luật Nghĩa vụ quân
sự, Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, Luật Biên giới quốc gia, Luật
Quốc phòng, Luật Dân quân tự vệ, Luật An ninh nhân dân, Luật Công an,
Pháp lệnh Lực lượng dự bị động viên, Pháp lệnh Bộ đội biên phòng, Pháp
lệnh Lực lượng cảnh sát biển Việt Nam, Pháp lệnh Lực lượng cảnh sát nhân
dân, Pháp lệnh Bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự, Pháp lệnh
Động viên công nghiệp; một số văn bản của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành lệnh, pháp lệnh, các văn bản về tổ chức xây dựng lực
lượng và chính sách đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, công tác
quốc phòng ở các bộ, ngành và địa phương … các văn bản đó đã góp phần
hình thành hệ thống văn bản qui phạm pháp luật về quốc phòng – an ninh, bảo
vệ Tổ quốc tạo hành lang pháp lý và điều kiện tổ chức thực hiện nhiệm vụ
quốc phòng – an ninh.
Tuy hệ thống pháp luật đó chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của
thực tiễn đặt ra, có mặt chưa có luật điều chỉnh, hoặc là có luật nhưng nhiều
điểm không còn phù hợp vướng mắc trong khâu tổ chức thực hiện.
Trong thời gian tới, Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu, ban hành các
văn bản qui phạm pháp luật để điều chỉnh các hoạt động quân sự, quốc phòng,
an ninh chưa có luật điều chỉnh, luật hóa các pháp lệnh hoặc còn thiếu, đặc
biệt là trong các hoạt động xây dựng khu vực phòng thủ, xây dựng thế trận,
động viên quân đội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
xây dựng lực lượng dân quân tự vệ trong các doanh nghiệp liên doanh với
nước ngoài, giáo dục quốc phòng – an ninh. Chính sách về quốc phòng trong
thời gian qua đã được xây dựng, bổ sung và đã phát huy tác dụng, góp phần
xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân ngày càng
vững mạnh. Tuy nhiên, so với yêu câu của thời kỳ mới, nhiều nội dung không
còn phù hợp, nhiều vấn đề mới phát sinh cần được giải quyết. Vì vậy, cùng

với hoàn thiện hệ thống pháp luật, cần tiếp tục xây dựng, điều chỉnh, bổ sung,
hoàn thiện hệ thống chính sách, như chính sách điều chỉnh dân cư, chính sách
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng
trọng điểm và căn cứ cách mạng, chính sách đối với quân đội và hậu phương
quân đội, chính sách đối với dân quân tự vệ, dự bị động viên…
Các chính sách ban hành cần đi đôi với các biện pháp bảo đảm cho tổ
chức thực hiện. Vấn đề khó khăn thường gặp phải trong thực thi các chính
sách của Nhà nước là ngân sách, kinh phí. Vì vậy, cần tính toán khả năng huy
6

động và hỗ trợ của trên về ngân sách thì các chính sách mới phát huy được tác
dụng và đạt hiệu quả cao.
Trong quá trình thực thi các văn bản Nhà nước về quản lý quốc phòng
và an ninh phải có sự giám sát, thanh tra nghiêm ngặt của Nhà nước theo phân
cấp, đúng với quan điểm của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN. Khi ban hành một bộ luật phải kịp thời có những văn bản pháp quy
dưới luật để quy định hành động của mọi tổ chức, mọi công dân; tổ chức thi
hành có hiệu quả những luật, văn bản đã ban hành, biểu dương khen thưởng
những đơn vị, cá nhân thực hiện tốt, xử lý nghiêm những cá nhân, đơn vị vi
phạm pháp luật bảo vệ Tổ quốc, không để sự việc xảy ra rồi mới truy tìm
nguyên nhân và giải quyết hậu quả, gây ảnh hưởng đến thế trận quốc phòng
và an ninh đất nước nói chung và của địa phương nói riêng.
2.2. Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý chuyên trách của Nhà nước
về quốc phòng – an ninh
Tổ chức bộ máy quản lý chuyên trách của Nhà nước về quốc phòng –
an ninh có quan hệ mật thiết với công tác quản lý của Nhà nước về quốc
phòng – an ninh và công tác quốc phòng – an ninh. Vừa qua bộ máy quản lý
chuyên trách của Nhà nước về quốc phòng – an ninh ở các cấp từ Trung ương
đến địa phương đã được thiết lập và đi vào hoạt động. Tuy nhiên, so với yêu

cầu cũng còn bộc lộ những bất cập. Vì vậy, để quản lý Nhà nước về quốc
phòng – an ninh ở địa phương có hiệu quả cần nghiên cứu hoàn thiện bộ máy
quản lý chuyên trách của Nhà nước về quốc phòng – an ninh. Trước hết cần
tập trung giải quyết một số vấn đề sau:
Trước hết, phải tiếp tục kiện toàn hệ thống cơ quan, cán bộ chuyên
trách, kiêm nhiệm công tác quốc phòng – an ninh ở địa phương. Việc lựa
chọn, bố trí cán bộ cho cơ quan chuyên trách về quốc phòng – an ninh cần
được tiến hành chặt chẽ theo tiêu chuẩn chức danh cụ thể. Đồng thời, đội ngũ
này cần được bồi dưỡng chuyên sâu, có quy hoạch, kế hoạch quản lý, bố trí sử
dụng một cách phù hợp, bảo đảm phục vụ lâu dài, tích lũy được kinh nghiệm
và không để bị hẫng hụt.
Đặc biệt đối với các cơ quan làm tham mưu về công tác quốc phòng –
an ninh ở các địa phương như: Bộ chỉ huy quân sự cấp tỉnh, Công an cấp tỉnh,
Ban chỉ huy quân sự cấp huyện, Công an cấp huyện, Ban chỉ huy quân sự cấp
xã, Công an cấp xã là cơ quan tham mưu giúp cấp ủy và chính quyền địa
phương thực hiện quản lý Nhà nước về quốc phòng – an ninh phải thường
xuyên được củng cố, kiện toàn về tổ chức, biên chế, làm tốt chức năng, nhiệm
vụ của mình trong công tác quốc phòng – an ninh ở địa phương.
2.3. Tăng cường công tác giáo dục quốc phòng – an ninh cho toàn
dân và hệ thống chính trị ở địa phương
Tổ chức giáo dục quốc phòng – an ninh có tác động trực tiếp với nâng
cao trách nhiệm chính trị, trình độ tri thức và thể lực cho mọi công dân, là một
7

bộ phận cấu thành của giáo dục Quốc gia giữ vị trí quan trọng trong nội dung
quản lý Nhà nước về quốc phòng – an ninh ở địa phương. Trong tình hình
hiện nay, giáo dục quốc phòng – an ninh được triển khai đồng bộ cả bề rộng
và chiều sâu, với chương trình, nội dung, hình thức phù hợp với từng đối
tượng, nhất là cho đội ngũ cán bộ chủ trì ở tất cả các cấp, các ngành ở địa

phương, làm nòng cốt cho việc quốc phòng – an ninh ở các tổ chức đoàn thể
và quần chúng nhân dân. Mặt khác, đảm bảo cho đội ngũ cán bộ, Đảng viên
giỏi cả kiến thức chuyên ngành, giỏi quản lý kinh tế – xã hội mà còn phải
vững về kiến thức quốc phòng – an ninh, giỏi quản lý Nhà nước về quốc
phòng – an ninh theo cương vị chức trách.
Để nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về quốc phòng – an ninh, xây
dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân cần phải
coi trọng và đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục quốc phòng – an ninh
cho toàn dân, toàn bộ hệ thống chính trị, trên cơ sở đó mà động viên tinh thần
tự giác, tích cực thực hiện nhiệm vụ quốc phòng – an ninh thuộc phạm vi
trách nhiệm của mỗi người, mỗi tổ chức.
Trong thời gian qua, công tác tuyên truyền giáo dục quốc phòng – an
ninh đã triển khai trong toàn dân, ở các cấp, các ngành, các địa phương bước
đầu đạt được mục tiêu đề ra. Hệ thống văn bản chỉ đạo, chương trình, giáo
trình, giáo khoa tài liệu giáo dục bồi dưỡng kiến thức quốc phòng – an ninh
cho các đối tượng và học sinh, sinh viên được ban hành đầy đủ, đồng bộ và
kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi trong tổ chức thực hiện công tác giáo dục
quốc phòng – an ninh cho toàn dân, cho cán bộ các cấp, các ngành ở địa
phương, đưa công tác này vào nền nếp.
Trong thời gian tới cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục tạo chuyển
biến mạnh về nhận thức đối với công tác giáo dục quốc phòng – an ninh đến
mọi tầng lớp nhân dân địa phương; chuẩn hóa chương trình, nội dung giáo
dục quốc phòng – an ninh cho từng đối tượng cụ thể. Trên cơ sở đó phân cấp
tổ chức giáo dục quốc phòng – an ninh cho từng cấp theo hệ thống các
trường. Đồng thời cũng cần có nội dung, chương trình phổ biến kiến thức
quốc phòng – an ninh cho nhân dân địa phương.
Công tác giáo dục quốc phòng – an ninh phải được triển khai cả bề
rộng, chiều sâu, bằng nhiều hình thức, phương pháp phong phú, sinh động
cho các đối tượng, nhất là cho đội ngũ cán bộ chủ trì ở tất cả các cấp, các
ngành. Đảm bảo cho đội ngũ cán bộ, đảng viên không chỉ giỏi về kiến thức

chuyên ngành, giỏi quản lý xây dựng kinh tế mà còn phải có kiến thức quốc
phòng – an ninh, giỏi quản lý Nhà nước về quốc phòng – an ninh theo cương
vị chức trách.
Để thực hiện tốt công tác giáo dục quốc phòng – an ninh, cùng với việc
quán triệt các nghị định, chỉ thị, các thông tư hướng dẫn, các quy chế về tổ
chức giáo dục, cần tập trung giải quyết những khó khăn đang tồn tại. Trước
hết, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống chương trình cho các cấp học, bậc học về
8

giáo dục quốc phòng – an ninh. Đồng thời đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo
viên chuyên trách giảng dạy về quốc phòng – an ninh, từng bước chuẩn hóa
đội ngũ giáo viên theo quy định. Mặt khác, phải trú trọng đầu tư ngân sách,
phải đảm bảo tài liệu, cơ sở vật chất cho dạy và học môn giáo dục quốc phòng
– an ninh ở các trường, các cấp, các ngành, các địa phương. Có kế hoạch và
kiên quyết thực hiện theo đúng kế hoạch việc cử cán bộ các cấp đi học các lớp
bồi dưỡng kiến thức quốc phòng – an ninh do cấp trên tổ chức.
Thiết nghĩ, cần đẩy mạnh việc chuẩn hóa kiến thức và ý thức quốc
phòng cho đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước và cán bộ chủ chốt ở các
ngành, các cấp từ Trung ương đến cơ sở; nếu đây là vấn đề mới so với trước
đây và phải được đưa vào thành quy chế tuyển chọn cán bộ, viên chức nhà
nước. Bởi vì, chính sự bất cập về kiến thức và ý thức quốc phòng của cán bộ,
viên chức Nhà nước hiện nay, trước hết là cán bộ cấp tỉnh, thành, bộ, ngành…
là một trong những nguyên nhân cơ bản làm hạn chế đến việc kết hợp và giải
quyết hài hòa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa hiện nay.
Cần thực hiện quy chế tuyển chọn những cán bộ giữ cương vị lãnh đạo
các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị – xã hội đều phải có trình độ kiến
thức nhất định về quốc phòng và an ninh. Thực hiện được quy chế tuyển chọn
sẽ càng đòi hỏi mỗi cán bộ, viên chức nhà nước phải không ngừng trau dồi

kiến thức và những phẩm chất cần thiết về quốc phòng – an ninh, tăng cường
năng lực quản lý quốc phòng theo phạm vi, chức năng nhiệm vụ của mình, từ
đó đất nước ta mới có được nhiều cán bộ không những giỏi cả trong lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, xã hội, mà còn giỏi cả về quản lý Nhà nước về quốc phòng
và an ninh.
Tiếp tục đổi mới chương trình, nội dung, giáo trình, tài liệu và phương
pháp GDQP&AN, phù hợp với tình hình thực tiễn. Chúng ta biết rằng, chất
lượng giáo dục, bồi dưỡng KTQP-AN phụ thuộc rất lớn vào nội dung, chương
trình, giáo trình, tài liệu,… Đặc biệt, trước những diễn biến mau lẹ, khó lường
của tình hình thế giới, khu vực và bước phát triển mới của nhiệm vụ BVTQ,
càng đòi hỏi công tác GDQP&AN cần phải đổi mới toàn diện, mạnh mẽ, cập
nhật kịp thời, nhất là về chương trình, nội dung. Trên cơ sở Kế hoạch triển
khai thi hành Luật GDQP&AN đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, các
bộ: Quốc phòng; Công an; Giáo dục và Đào tạo; Lao động Thương binh và
Xã hội, theo nhiệm vụ được phân công, cần khẩn trương nghiên cứu, điều
chỉnh, bổ sung hệ thống chương trình, giáo trình, tài liệu bồi dưỡng
KTQP&AN, môn học GDQP&AN, phù hợp với từng đối tượng và tình hình
kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước. Nội dung phổ biến,
GDQP&AN, phải bám sát, cập nhật quan điểm, phát triển mới về đường lối
quốc phòng, an ninh của Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về
Chiến lược BVTQ trong tình hình mới. Trong bối cảnh hiện nay, cần tiếp tục
giáo dục lòng yêu nước, yêu chế độ XHCN, lòng tự hào, tự tôn dân tộc; về
9

mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược; về đối tượng, đối tác, cũng như
âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, nhất là việc thúc đẩy “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” nội bộ ta của các thế lực thù địch,… Qua đó, tiếp tục nâng
cao nhận thức, trách nhiệm của toàn dân đối với nhiệm vụ BVTQ.
Vì vậy, để khắc phục sự khô cứng trong công tác GDQP&AN, trong

quá trình tiến hành cần kết hợp đa dạng, linh hoạt các hình thức, phương pháp
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục; kết hợp giáo dục thường xuyên với giáo dục
tập trung; giáo dục toàn diện, nhưng có trọng tâm, trọng điểm. Mặt khác, tiếp
tục mở rộng đối tượng giáo dục, bồi dưỡng KTQP&AN; trong đó, trọng tâm
là đội ngũ cán bộ các cơ quan tham mưu chiến lược, cán bộ chủ chốt các cấp,
ngành, địa phương và thế hệ trẻ.
2.4. Xây dựng cơ sở vững mạnh, xây dựng “thế trận lòng dân” vững
chắc
Lý luận và thực tiễn đã khẳng định “thế trận lòng dân” là thế trận vững
chắc nhất. Vì thế, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng khu
vực phòng thủ hiện nay, chúng ta cần coi trọng đẩy mạnh xây dựng “thế trận
lòng dân” vững chắc ngay từ cơ sở.
Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam
cho thấy: sự mất hay còn của Tổ quốc, sự hưng thịnh hay suy vong của các
triều đại hầu hết đều do yếu tố lòng dân được quan tâm, chăm lo xây dựng
hay bị coi nhẹ, xem thường thông qua thực thi các chính sách. Nổi bật là:
“ngụ binh ư nông” và “viễn nhu” thời Lý; tư tưởng “trọng dân”, “an dân”,
“khoan thư sức dân để làm kế bền gốc sâu rễ, đó là thượng sách giữ nước”
thời Trần và “nước lấy dân làm gốc”, “việc nhân nghĩa cốt để yên dân”, “sửa
đức để cầu mệnh trời; ngăn quyền hào để nuôi sức dân; cấm phiền hà để dân
sống khá, cấm xa xỉ để dân phong túc; dẹp trận cướp để dân ở yên; sửa quân
chính để bảo vệ dân sinh,… thương nuôi dân mọn” thời Lê Lợi, Nguyễn Trãi,
v.v. Nhờ đó, quy tụ được lòng dân, tạo dựng được “thế trận lòng dân” vững
chắc để đánh bại những kẻ thù xâm lược, giữ yên bờ cõi, bảo vệ độc lập dân
tộc. Ngược lại, dù có thành cao, hào sâu và “nỏ thần” lợi hại như thời An
Dương Vương hoặc quân đội hùng hậu, thành lũy kiên cố, vũ khí, phương
tiện thời nhà Hồ cũng thất bại trước kẻ thù. Hẳn mọi người còn nhớ câu nói
nổi tiếng, đậm dư vị xót sa của Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng: “thần
không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo”. Qua đó cho thấy, lòng dân là
thành lũy kiên cố nhất, vững chắc nhất, bất kể kẻ thù xâm lược nào, dù hùng

mạnh, hung bạo đến đâu cũng không thể vượt qua. Đây là tư tưởng, quan
điểm nhất quán, xuyên suốt lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại
hơn hết. Không ai chiến thắng được lực lượng đó”. Kế thừa và phát triển tinh
hoa truyền thống dân tộc, Đảng ta đã lãnh đạo phát huy cao độ sức mạnh của
mọi tầng lớp nhân dân, của cả dân tộc, làm nên những thắng lợi vĩ đại trong
hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược. Sau chiến
10

tranh giải phóng dân tộc, nhân dân ta triển khai thực hiện chủ trương chiến
lược của Đảng xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố; trong đó, xây
dựng “thế trận lòng dân” là nội dung quan trọng. Chủ trương trên thể hiện sự
phát triển nhận thức, lý luận về bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta.
Xây dựng cơ sở vững mạnh trước hết phải nói đến xây dựng thế trận
khu vực phòng thủ bao gồm cả xây dựng thế trận lòng dân và thế trận quốc
phòng – an ninh. Thế trận lòng dân là cơ sở, nền tảng, là cái gốc cho xây dựng
quốc phòng – an ninh. Đó là thế trận quốc phòng toàn dân gắn thế trận an
ninh nhân dân thời bình và sẵn sàng chuyển thành thế trận chiến tranh nhân
dân khi có chiến tranh. Xây dựng thế trận là xây dựng thế bố trí và các điều
kiện cho hoạt động của các lực lượng, nhằm phát huy khả năng cao nhất của
các lực lượng trong khu vực phòng thủ tạo thành sức mạnh tổng hợp thực
hiện nhiệm vụ phòng thủ bảo vệ địa phương. Thế trận khu vực phòng thủ
huyện là một bộ phận hợp thành của thế trận khu vực phòng thủ tỉnh. Thế trận
khu vực phòng thủ huyện bao gồm: thế trận làng, xã chiến đấu, cụm chiến đấu
trọng điểm; khu vực phòng thủ then chốt; căn cứ chiến đấu; căn cứ hậu
phương; khu tập trung lực lượng dự bị động viên; khu sơ tán cơ quan; lãnh
đạo, chỉ huy; khu sơ tán nhân dân; trận địa của bộ đội địa phương tỉnh, bộ đội
chủ lực. Các thành phần này được liên kết chặt chẽ với nhau, cùng với cơ sở
hạ tầng giao thông, y tế, bưu điện, tạo nên thế trận liên hoàn, vững chắc của

khu vực phòng thủ địa phương.
Xây dựng cơ sở vững mạnh, xây dựng thế trận lòng dân vững chắc là
cơ sở, nền tảng cho xây dựng thế trận quốc phòng – an ninh, nhân tố quyết
định sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân ở địa
phương. Thế trận lòng dân là ý trí, quyết tâm của nhân dân, của toàn xã hội
được vun đấp, xây dựng tạo thành sự đồng thuận cao, hướng đến mục tiêu
chung sự nghiệp bảo vệ tổ quốc.
Trong tình hình hiện nay xây dựng cơ sở vững mạnh về chính trị, xây
dựng củng cố “thế trận lòng dân” vừa là những vấn đề cơ bản lâu dài, vừa có
tính cấp thiết của sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Văn kiện
Đại hội XI của Đảng xác định: Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh
quốc gia, trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của
Đảng, Nhà nước và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân
dân là lực lượng nòng cốt. Xây dựng cơ sở vững mạnh về chính trị, xây dựng
củng cố “ thế trận lòng dân” cần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, kế hoạch
phát triển kinh tế – xã hội; phát triển kinh tế bền vững; thực hiện tốt các chính
sách an sinh xã hội, chính sách dân tộc, tôn giáo, nâng cao đời sống cho nhân
dân, thu hẹp khoảng cách về chênh lệch giàu, nghèo giữa các tầng lớp nhân
dân, giữa các vùng, miền.
Cần phải đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở
(nhất là xã, phường, thị trấn). Trong đó, lấy xây dựng chi bộ trong sạch vững
mạnh là then chốt; thường xuyên chăm lo xây dựng các tổ chức, đoàn thể
11

trong hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn; thôn, ấp, buôn làng, bản. Đây là
một nội dung, biện pháp có ý nghĩa quyết định đến phát triển kinh tế xã hội,
bảo đảm quốc phòng – an ninh, xây dựng thế trận lòng dân ở từng địa
phương, cơ sở.
2.5. Thực hiện nền nếp chế độ kiểm tra, thanh tra và giải quyết khiếu

nại tố cáo; sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ
quốc phòng – an ninh ở địa phương
Kiểm tra, thanh tra và giải quyết khiếu nại tố cáo trong việc thực hiện
nhiệm vụ quốc phòng là một nội dung quan trọng trong quản lý Nhà nước về
quốc phòng – an ninh ở địa phương. Vì vậy, các cấp phải chỉ đạo việc kiểm
tra, thanh tra công tác quốc phòng – an ninh đối với các cơ sở, ban, ngành địa
phương thuộc quyền theo những qui định của pháp luật về thanh tra quốc
phòng. Tiến hành sơ kết, tổng kết về công tác quốc phòng – an ninh và báo
cáo kết quả theo qui định.
Kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ về quốc phòng – an ninh ở địa
phương là việc làm thường xuyên, cần thiết thuộc chức năng, nhiệm vụ quyền
hạn của các cấp ủy Đảng và chính quyền cấp địa phương. Vì vậy, phải duy trì
thành nền nếp. Kiểm tra có vai trò rất quan trọng trong quản lý Nhà nước về
quốc phòng – an ninh. Có kiểm tra mới thực hiện được những biểu hiện lệch
lạc, yếu kém về tổ chức thực hiện, kịp thời giải quyết trong quá trình chỉ đạo
tổ chức, hoạt động quản lý Nhà nước về quốc phòng – an ninh đạt hiệu quả.
Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống các VBQPPL và chính sách làm
cơ sở để kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực thi nhiệm vụ quốc phòng của
các cấp, các ngành từ Trung ương đến các địa phương. Cùng với cơ quan
pháp luật, cần phát huy trách nhiệm của cơ quan hành pháp trong kiểm tra,
thanh tra, giám sát theo các chuyên ngành. Đồng thời, cần đề cao vai trò của
quần chúng nhân dân trong QLNN về quốc phòng. Đặc biệt, thông qua các tổ
chức chính trị – xã hội để động viên quần chúng tham gia kiểm tra, giám sát
việc thực hiện nhiệm vụ QP-AN ngay tại cơ sở.
Sơ kết, tổng kết là việc làm thiết thực góp phần nâng cao năng lực công
tác của đội ngũ cán bộ Đảng, chính quyền địa phương và hiệu lực quản lý
Nhà nước về quốc phòng – an ninh của địa phương. Qua sơ kết, tổng kết
nhằm giúp các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương đánh giá đúng thực
trạng công tác quốc phòng – an ninh do cấp mình quản lý, từ đó có chủ
trương, biện pháp phù hợp để thực hiện tốt hơn công tác quản lý về quốc

Xem thêm: Ví Dụ Giải Phương Trình Bậc 3 Một Ẩn, Giải Phương Trình Bậc 3

phòng – an ninh của địa phương trong giai đoạn tiếp theo.

12

KẾT LUẬN
Quản lý nhà nước về quốc phòng – an ninh có vai trò hết sức quan trọng
trong nâng cao chất lượng, hiệu quả sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn
dân, nền an ninh nhân dân cũng như đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Mỗi cán bộ của Đảng,
Nhà nước, Quân đội, Công an, các ban, ngành, đoàn thể cần nắm vững mục
tiêu, yêu cầu, nội dung, cơ chế tổ chức quản lý nhà nước về quốc phòng – an
ninh; nắm vững các phương pháp quản lý theo ngành, địa phương, kết hợp
chặt chẽ giữa quản lý ngành với địa phương; nắm vững các biện pháp giáo
dục quốc phòng – an ninh; từng bước hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước,
hoàn chỉnh hệ thống chính sách, pháp luật; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng,
hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước về quốc phòng – an ninh trong thời kỳ
mới nhằm không ngừng nâng cao chất lượng hiệu quả quản lý nhà nước về
quốc phòng – an ninh và góp phần tích cực vào xây dựng nền quốc phòng toàn
dân, nền an ninh nhân dân vững mạnh, toàn diện, để thực hiện thắng lợi sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quản lý nhà
nước về quốc phòng – an ninh là quá trình nắm và điều hành bằng pháp luật,
chính sách, kế hoạch và các công cụ khác của Quốc hội và Nhà nước trong
mọi lĩnh vực, mọi hoạt động xã hội, có quan hệ đến việc giữ gìn, bảo vệ độc
lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia, do hệ thống các cơ
quan lập pháp, hành pháp và tư pháp của bộ máy nhà nước từ trung ương đến
cơ sở tiến hành theo chức năng nhiệm vụ, phạm vi quyền hạn của mỗi cơ
quan. Chủ thể quản lý nhà nước về quốc phòng – an ninh bao gồm tổng thể
các cơ quan nhà nước, từ trung ương đến cơ sở.
Quản lý nhà nước về quốc phòng – an ninh cũng mang bản chất giai cấp

sâu sắc. Đó là bản chất của giai cấp công nhân, do các cơ quan nhà nước của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, bản chất đó
được biểu hiện ở mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng – an ninh là: bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo
vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình,
ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; chủ
động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các
thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đây là nhiệm
vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân, trong đó: Xây
dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại, có số lượng hợp lý, với chất lượng tổng hợp và sức
chiến đấu cao.

13

PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU

Trang 01

1. Lý do chọn chủ đề thảo luận
2. Đối tượng của tiểu luận
3. Phương pháp nghiên cứu

02

4. Gía trị ý nghĩa của tiểu luận
5. Cấu trúc của tiểu luận

NỘI DUNG

03

1. Cơ sờ lý luận, thực tiễn của nội dung nghiên cứu
1.1. Cơ sở lý luận
1.2. Thực trạng nội dung nghiên cứu

04

2. Giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý

05

nhà nước về quốc phòng, an ninh ở địa phương
2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về
quốc phòng, an ninh
2.2. Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý chuyên trách

07

của Nhà nước về quốc phòng,an ninh
2.3. Tăng cường công tác giáo dục quốc phòng, an ninh
cho toàn dân và hệ thống chính trị ở địa phương
2.4. Xây dựng cơ sở vững mạnh, xây dựng “thế trận

10

lòng dân” vững chắc
2.5. Thực hiện nền nếp chế độ kiểm tra, thanh tra và

12

giải quyết khiếu nại tố cáo; sơ kết, tổng kết, rút kinh
nghiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng,
an ninh ở địa phương
KẾT LUẬN

13

TÀI LIỆU THAM KHẢO

15

14

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011.
2) Nghị quyết số 28NQ/TƯ Bộ Chính Trị, ngày 22/9/2008 “Về tiếp tục
xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ
vững chắc trong tình hình mới”.
3) Nghị định 152/2007/NĐ-CP ngày 10-10-2007 về khu vực phòng thủ.
4) Quyết định số 13/2012/QĐ-TTg ngày 23-02-2012 của Thủ tướng
Chính phủ về khu vực phòng thủ.
5) Giáo trình Kiến thức Quốc phòng – An ninh (dùng cho đối tượng 2)
Nxb CTQG, 2012.
6) Thông tư số 139/2008/TT – BQP, ngày 14-11-2008 về khu vực
phòng thủ.

15

Tài liệu liên quan

*

Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về thương mại đối với mặt hàng rau an toàn.doc 19 1 16

*

Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà Nước về thương mại với mặt hàng rau an toàn 18 811 3

*

nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở thành phố Hồ Chí Minh 104 1 3

*

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về thị trường đất đai – bất động sản ở Việt Nam 163 686 2

*

Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục đại học 21 845 1

*

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về khai thác khoảng sản ở tỉnh Thái Nguyên 106 1 14

*

Đổi mới cơ chế thanh tra nhằm nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về kinh tế ở tỉnh Đồng Nai 106 635 1

*

Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục đại học 161 1 7

*

Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về thuế đối với các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh bắc giang 155 500 1

*

Thực trạng về quy hoạch xây dựng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về quy hoạch xây dựng trên địa bàn thị xã chí linh, tỉnh hải dương 93 1 2

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Xem thêm: Lời Nói Đầu Đồ Án Tốt Nghiệp Cơ Khí,Điện, Đồ Án Cơ Khí

(42.71 KB – 15 trang) – TIỂU LUẬN QUỐC PHÒNG AN NINH NÂNG CAO HIỆU lực QUẢN lý NHÀ nước về QUỐC PHÒNG AN NINH ở địa PHƯƠNG HIỆN NAY

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Tiểu luận