Thuyết Trình Về Phương Tiện Truyền Thông, Phương Tiện Truyền Thông

Phần 1: Vài nét về lịch sử phát triển của các phương tiện truyền thông mới ở Việt Nam1.1. Lịch sử phát triển1.2. Các nhà cung cấp dịch vụ và các nhãn hiệu được ưa chuộng nhất ở Việt NamPhần 2: Một số phương diện lý thuyết trong việc nghiên cứu phương tiện truyền thông mới ở Việt Nam2.1. Các phương tiện truyền thông mới ở Việt Nam2.2. Vòng xoáy của sự im lặng2.3. Một không gian và thế giới số và ảo2.4. Không biên giớiPhần 3: Phương tiện truyền thông mới và những thay đổi văn hóa – xã hội ở Việt NamA. Những thay đổi văn hóa xã hội3.1 Sự thay đổi trong giao tiếp cá nhân và xã hội3.2 “ Cái tôi” trong xã hội gia tăng3.3. Sự thay đổi của không gian xã hội và cá nhân3.4. Sự thay đổi của giải trí3.5 . Dân chủ hóa đời sống xã hội3.6. Sự hỗn loạn của thông tin và việc hình thành các tiểu văn hóa3.7. Những thay đổi trong cách truyền đại tri thức trong xã hội3.8. Khoảng cách số trong xã hội3.9. Những hình thức phạm tội mới nảy sinh3.10. Thay đổi cách thức kinh doanh, cung cấp dịch vụ3.11. Những nhu cầu mới và lối sống mới, những ngôn ngữ mới3.12. Những thay đổi trong tâm lý cá nhânB. Những xu hướng phát triển của các phương tiện truyền thông mới ảnh hưởng đến đời sống văn hóa – xã hội.Phần kết luận Tài liệu tham khảoPhụ lục

Phần mở đầuCác phương tiện truyền thông mới là một trong những thành tựu quan trọng nhất mà loài người đạt được trong vòng 2 thập kỷ trở lại đây và đang nhận được sự quan tâm của cả các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý xã hội và người dân nói chung. Khi một công nghệ mới ra nhập xã hội, nó luôn va chạm tới hàng loạt các chuẩn mực văn hoá. Sự ra đời của bất kỳ một công nghệ nào cũng có những ảnh hưởng nhất định đối với văn hóa – xã hội, tuy nhiên, sự xuất hiện của các phương tiện truyền thông mới trong thời gian vừa qua đã tạo nên những thay đổi văn hóa – xã hội sâu sắc. Những thay đổi ấy không chỉ dừng lại ở những biểu hiện bên ngoài xã hội hay con người, mà nó còn thấm sâu, làm thay đổi bản chất của xã hội cũng như chính đời sống tâm lý, thói quen của mỗi con người. Nó khiến cho xã hội chuyển động với một tốc độ nhanh hơn và các khoảng cách xã hội được thu hẹp hơn rất nhiều. Những giá trị xã hội cũng đang trong quá trình biến đổi. Khi bàn về sự thay đổi của thế giới trong thời gian vừa qua, tác giả của cuốn Thế giới phẳng, T.Friedman (2006) cũng đã đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của các phương tiện truyền thông mới như là một trong những yếu tố căn bản nhất góp phần làm cho thế giới trở nên “phẳng” thông qua các kết nối Interrnet, điện thoại di động (ĐTDĐ), và các hình thức hỗ trợ kỹ thuật số khác (PDA: personal digital assistants). Có thể nói không quá rằng, lần đầu tiên trong lịch sử của mình, loài người đã phát minh ra một thứ công nghệ đang có xu hướng chi phối luôn cả bản thân mình lẫn thói quen sinh hoạt. Ví dụ, khác với truyền hình hay điện thoại thông thường. những thiết bị con người có thể cần hoặc không cần ĐTDĐ (hay nói một cách chính xác hơn là thiết bị truyền thông di động (mobile communication)) đã khiến cho người sử dụng nó không thể rời xa khi nó không chỉ là một thiết bị liên lạc mà còn là một phương tiện quản lý cuộc sống, giải trí và ngày càng có thêm nhiều chức năng khác, còn Internet đã khiến cho các khái niệm không gian và thời gian trở nên tương đối cũng như trở thành một bước ngoặt trong mọi” giao tiếp xã hội, kể cả biến những điều có thật thành ảo và ngược lại.Cũng như quá trình toàn cầu hoá, nhiều nước trên thế giới đã tiếp tục lo ngại về việc các phương tiện truyền thông mới ra đời sẽ khiến thế giới trở nên bị “Mỹ hoá”. Trên thực tế, đây không phải là điều không có cơ sở khi có nhiều bằng chứng chỉ ra cho thấy, công nghệ truyền thông mới đã khiến hàng triệu người trên thế giới trở nên quan tâm đến bản thân họ hơn và xa rời những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc hay say mê với những sản phẩm thương mại và cả văn hóa của Tây phương (mà cụ thể là Coca Cola, Hollywood, Microsoft) hơn những sản phẩm của chính nước mình Với các phương tiện thông tin cổ điển, nỗ lực chủ yếu là nhằm xoá bỏ biên giới chính trị, và thực hiện một sự hoà nhập tốt đẹp hơn. Với Internet, việc xoá bỏ biên giới tư tưởng trở thành đối tượng nhằm thống nhất cách xử thế và thống nhất tư tưởng. Do đó, đối với Nelson Thall, môn đệ của Marshall Mcluhan, dự án không dám nói ra của Internet là làm cho toàn bộ thế giới nghĩ và viết như người MỹNhư vậy sẽ không phải là hoà nhập mà là đồng hoá.Đây rõ ràng không phải là điều mà phần lớn những người sử dụng mạng lưới này mong muốn. Đối với họ, điều họ muốn là cải thiện cuộc đối thoại giữa các nước và giữa các cá nhân sống rải rác trên khắp địa cầu. Họ không muốn tìm kiếm thông tin trong mạng này sự chạy trốn khỏi thực tại mà là tìm cái có khả năng cải thiện chất lượng cuộc sống của họ trong lao động cũng như trong giải trí… xưa kia tư tưởng nằm trong hành lý của con người. Ngày nay, chúng được ưu tiên sử dụng các làn sóng và các kỹ thuật truyền thông mới. Các sóng này rõ ràng đã mang tải các giá trị của những xã hội đã tạo ra các giá từ đó. Chính vì cảm thấy mình là một công dân thế giới mà người ta muốn biết điều gì đang xảy ra trong thực tại ở những nơi khác trên thế giới .Tuy nhiên, câu chuyện không xảy ra một chiều như vậy. Công nghệ luôn mang tính chất trung tính, và việc con người sử dụng các công nghệ này đến đâu sẽ quyết định hiệu quả và ảnh hưởng của các công nghệ đối đối với xã hội mỗi nước.Dù xuất hiện ở Việt Nam (VN) chưa lâu song các phương tiện truyền thông mới đã có những tác động đáng kể đến đời sống văn hóa của người dân, đặc biệt là cư dân đô thị lớn như Hà Nội (HN) và Thành phố Hồ Chí Minh (tp.HCM). Với số lượng hơn 14 triệu người sử dụng Intemet và 12 triệu số thuê bao di động tính đến thời điểm tháng 10-2006 và không ngừng gia tăng với tốc độ nhanh chóng trong thời gian sắp tới, ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông mới đối với thói quen sinh hoạt của mỗi người dân nói riêng và toàn bộ đời sống xã hội nói chung là rất lớn, và điều đó đòi hỏi có sự quan tâm nghiên cứu.Trên thế giới, nghiên cứu về các phương tiện truyền thông mới là một trào lưu nghiên cứu rất được các nhà nghiên cứu quan tâm. Điều này có lẽ bắt nguồn từ một sự thật rằng, sự phát triển của phương tiện truyền thông không phải bao giờ cũng nằm trong tầm kiểm soát của các nhà kỹ thuật. Công nghệ điện thoại truyền hình, chẳng hạn, đã thất bại hơn nhiều so với dịch vụ nhắn tin trên ĐTDĐ, và là một bài học cho các nhà kỹ thuật, các công ty ĐTDĐ khiến họ phải tìm đến các nhà khoa học xã hội, đặc biệt là các nhà nhân học, để tìm hiểu xem ĐTDĐ được sử dụng ra sao. Hàng năm, các nhà nghiên cứu về các phương tiện truyền thông mới vẫn thường tập hợp nhau lại trong các cuộc hội thảo để trao đổi kinh nghiệm, lý thuyết và phương pháp nghiên cứu về hiện tượng lý thú này như các hội thảo tại Philipin (2003), Hồng Kông (2004), Trung Quốc (Bắc Kinh) (2005), Hàn Quốc (2006), Nga (Moscow), Pháp và Philipin (2007). Họ cũng tập hợp nhau lại thành một cộng đồng với tên gọi mobile-society (Hội Di động) trên địa chỉ trang web groups.google.com/group/mobile-society để giữ liên hệ thường xuyên với nhau hơn. Các nhà nghiên cứu thuộc nước thuộc khu vực Đông Á và Đông Nam Á, Phần Lan, Mỹ, Úc, Italia, Pháp, Hà Lan là những thành viên tích cực nhất của nhóm nghiên cứu này với các học giả nổi tiếng trong nhóm như James Katz, Mama Aakhus, Leopoldina Fortunati, Christian Licoppe, Chantal Dễ Goumay, Sum Dong Kim, Patrick Law, Rama Pertierra… Một số học giả Việt Nam cũng tham gia vào các cuộc hội thảo thường niên cũng như các trao đổi trên mạng của nhóm nghiên cứu này. Trên thực tế, việc nghiên cứu về các phương tiện truyền thông mới trên thế giới đã trải qua 2 giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất bắt đầu bởi các nghiên cứu mang nặng tính mô tả để trả lời các câu hỏi ai là người sử dụng các phương tiện truyền thông mới, họ sử dụng với tần suất như thế nào và mục đích sử dụng ra sao cũng như ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của việc sử dụng các phương tiện truyền thông mới đó hoặc tiến hành các nghiên cứu .so sánh việc sử dụng giữa các quốc gia với nhau. Giai đoạn thứ hai được đặc trưng bởi những giải thích về việc sử dụng các phương tiện truyền thông mới thông qua các lý thuyết hoặc phát triển lý thuyết thông qua các phân tích về các phương tiện truyền thông mới. Một loạt các cuốn sách được ra đời như cuốn Machines That Become Us: The Social Context of Personal Communicication Techology ( 2001) do J. Katz biên tập; Perpetual Contact: Mobile Commmunicication, Private Talk, Puplic Performance ( 2002) do J. Katz và M.Aakhus biên tập, Wireless World; Social and Interactional Aspects of the Mobile Age do D.Diaper và C. Sanger biên tập hay Mediating The Human Body; Technology, Communication and Fashion (2003) do L. Fortunati, J.Katz và R.Riccini biên tập. Các lý thuyết được áp dụng nhiều nhất bởi các nhà nghiên cứu là lý thuyết vòng xoáy của sự im lặng ( The Sprial of Sience), quá trình cá nhân hóa (personalizalion), vốn xã hội (Social Capital)… Việc lý giải những biến đổi xã hội hay văn học hoặc trong tâm lý của các cá nhân cũng là mói chủ đề chính trong giai đoạn nghiên cứu này. Tuy vậy, chúng ta không thể nói rằng, giai đoạn thứ hai là ưu việt và đáng quan tâm hơn giai đoạn thứ nhất. Và vì vậy không cần nghiên cứu các chủ đề của giai đoạn nghiên cứu thứ nhất. Tất cả các giai đoạn nghiên cứu đều quan trọng như nhau, đặc biệt đối với các xã hội với nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam thì các nghiên cứu mô tả cũng quan trọng như các nghiên cứu phân tích.Ở Việt Nam. nghiên cứu về các phương tiện truyền thông mới chưa được chú ý một cách đúng mức. Có một vài công trình nghiên cứu về các phương tiện truyền thông mới như đề tài về ảnh hưởng của Intemet đối với thanh niên Hà Nội của Bùi Hoài Sơn (Viện Văn hóa Thông tin) đề tài của Nguyễn Thị Minh Phương (Viện Xã hội học) về việc sử dụng Intemet của trẻ em, hay đề tài của Nhuyễn Quý Thanh, Trịnh Hoà Bình cũng về chủ đề này… Các nghiên cứu này đa số đều được xếp vào giai đoạn nghiên cứu thứ nhất. Chỉ có một số các bài viết như về vốn xã hội và việc sử dụng Internet ở Việt Nam (Bùi Hoài Sơn), hay sử dụng ĐTDĐ để giữ thể diện: một vấn đề xã hội ở Việt Nam (Bùi Hoài Sơn, Nguyễn Thị Thu Hà) là có thể được xếp vào các công trình nghiên cứu thuộc giai đoạn hai. Tuy nhiên, báo chí Việt Nam lại rất quan tâm đến chủ đề ĐTDĐ và Internet. Rất nhiều bài báo được đăng tải về các vấn đề khác nhau trong việc sử dụng ĐTDĐ và lntemet, đặc biệt là đối với thanh niên hay liên quan đến mặt trái của việc sử dụng các phương tiện này.Một đặc điểm quan trọng trong việc nghiên cứu về các phương tiện truyền thông mới có liên quan đến các tài trợ cho nghiên cứu. Phải nói rõ ràng rằng, đằng sau bản chất lý thú của các phương tiện truyền thông mới như tính mới mẻ, chưa được nghiên cứu nhiều, tác động sâu sắc đến xã hội, thì chúng ta không thể phủ nhận ảnh hưởng của các công ty, hãng truyền thông, sản xuất điện thoại lớn trên thế giới có tác động đến các nghiên cứu. Nokia, Sam sung, France Telecom thường xuyên đứng đằng sau và tài trợ cho các nghiên cứu, các cuộc hội thảo được tiến hành về các chủ đề này, bất kể đó là các nghiên cứu ở Việt Nam hay các nước khác. Ngành kinh doanh các thiết bị di động mới càng phát đạt, các nhà nghiên cứu về lĩnh vực này càng được hưởng lợi. Điều đó cũng đúng cho trường hợp các nhà nghiên cứu ở Việt Nam hiện nay và trong tương lai tới đây. Trong cuốn sách này, chúng tôi sẽ bàn về những khía cạnh ảnh hưởng khác nhau của các phương tiện truyền thông mới đối với người dân, đặc biệt là người dân đô thị. Trên thực tế, các phương tiện truyền thông mới hầu như có tác động đến mọi ngõ ngách của cuộc sống hàng ngày, tuy nhiên, đô thị mới là nơi chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhất vì nhiêu lý do như hạ tầng viễn thông tốt và thuận tiện, mức sống người dân cao, dân cư tập trung… Kết quả của một số cuộc điều tra về ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông mới đối với người dân đô thị hay ảnh hưởng của Internet đối với giới trẻ cũng được sử dụng trong cuốn sách này.█Phần 1: Vài nét về lịch sử phát triển của các phương tiện truyền thông mới ở Việt Nam1.1 Lịch sử phát triểnNhìn lại chặng đường phát triển của các phương tiện truyền thông mới ở Việt Nam, chúng ta thấy rằng dù mới xuất hiện nhưng ĐTDĐ và Internet đã nhanh chóng trở nên phổ biến và ảnh hưởng mạnh mẽ đến toàn bộ đời sống xã hội. Năm 1994, ngành bưu điện mới bắt đầu hợp tác với Alcatel đưa mạng ĐTDĐ đầu tiên hoạt động tại Việt Nam, chỉ trong vòng 12 năm, đã có tới 12 triệu số thuê bao được sử dụng. Việt Nam trở thành một trong những thị trường ĐTDĐ tăng trưởng nhanh nhất tại thị trường châu Á với tốc độ tăng trưởng hàng năm khoảng 50%. Năm 1997, Internet mới bắt đầu được giới thiệu tại Việt Nam, nhưng chỉ trong vòng chưa đến 10 năm, đã có khoảng 14 triệu người Việt Nam sử dụng loại phương tiện truyền thông mới này. So sánh tỷ lệ phát triển ĐTDĐ và Internet đối với những phương tiện truyền thông trước đây như truyền hình, báo chí hay điện thoại cố định, tỷ lệ phát triển trên là không thể tưởng tượng được, kể cả đối với những người lạc quan nhất.Biểu đồ tăng trưởng thuê bao Internet đến năm 2005Có nhiều lý do để giải thích cho sự tăng trưởng chóng mặt của thị trường ĐTDĐ cũng như Internet tại Việt Nam. Lý do thứ nhất đến từ những định hướng đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong việc phát triển thị trường viễn thông này. Các mục tiêu và định hướng phát triển công nghệ truyền thông mới (đặc biệt là Internet) được đề cập đến trong nhiều văn kiện của Đảng và các văn bản của Chính phủ, như:

Xét theo mức độ thường xuyên là: 1/ Nghe; 2/ Nhắn tin; 3/ Gọi đi; 4/ Nhắc việc, đặt giờ; 5/ Nghe nhạc; 6/ Tải nhạc chuông, hình ảnh; /7 Cập nhật thông tin; 8/ Chụp hình; 9/ Quay, xem phim; 10/ Tham gia trò chơi trên truyền hình.

Đang xem: Thuyết trình về phương tiện truyền thông

Không có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê giữa Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh về mức độ sử dụng các chức năng của ĐTDĐ. Trong khi đó, xét tương quan với nghề nghiệp, sử dụng ĐTDĐ để nghe và gọi đi của nhóm buôn bán, làm tự do cao nhất tương ứng (93.5% và 69.4%); nhóm học sinh vẫn thường sử dụng để nhắn tin nhiều hơn nhóm nghề khác trên 70%. Đồng thời hai nhóm này có một tỷ lệ khá cao sử dụng ĐTDĐ để tải nhạc chuông và hình ảnh (32.3% đối với sinh viên và 40.7% đối với nhóm học sinh). Chức năng để nhắc việc đặt giờ nhóm học sinh thấp nhất (22.2%). Khi xét tương quan giữa giới tính với sử dụng chức năng của ĐTDĐ thì có điểm đáng chú ý là dường như nữ giới vẫn ưa thích dùng ĐTDĐ để nhắn tin nhiều hơn nam giới (71.5% so với 59.0%). Xét theo tương quan với tình trạng hôn nhân, nhóm chưa lập gia đình sử dụng chức năng nhắn tin, nghe nhạc nhiều hơn những người đã lập gia đình (69.8% so với 53.6% và 24.8% so với 12.4%) và nhóm đã có gia đình sử dụng chức năng gọi đi cao hơn nhóm chưa lập gia đình (70.2% so với 58.4%). Xét tương quan giữa thu nhập với việc sử dụng chức năng của ĐTDĐ có những khác biệt như sau: những người có thu nhập khá và giàu có sử dụng chức năng nhắc việc / đặt giờ nhiều hơn các nhóm thu nhập khác (trên 50%). Nhóm thu nhập trung bình sử dụng một số chức năng của ĐTDĐ thấp hơn so với nhóm có thu nhập giàu có: dùng để gọi đi (51.8% so với 81.9%); dùng để chụp hình (8.0% so với 45.2%); nghe nhạc (16.9% so với 47.6%); tải nhạc chuông, hình ảnh (14.7% so với 43.4%). Xét theo độ tuổi, độ tuổi càng cao thì họ sử dụng ĐTDĐ để nhắn tin giảm dần, có (73.8%) những người 18 tuổi trở xuống có sử dụng nhưng đến nhóm 36 tuổi trở lên tỷ lệ này còn (35.1%); ngay cả chức năng nghe nhạc cũng tương tự như vậy (31.7% đối với nhóm 18 tuổi trở xuống và 1.1% đối với nhóm 36 tuổi trở lên). Những con số điều tra xã hội học trên có thể thay đổi theo thời gian, khi các tính năng của ĐTDĐ như quay phim, chụp ảnh, khả năng lưu trữ lớn hơn, cộng với hàng loạt các dịch vụ khác ra đời.

Thực tế, đúng như tên gọi của mình, ĐTDĐ có ưu điểm nổi trội là khả năng di động của nó. Nhờ có ĐTDĐ, con người có thể luôn luôn duy trì được liên lạc của mình và giữ nó trong những không gian riêng tư. Trong nghiên cứu của chúng tôi, một người được hỏi đã trả lời như sau:

Em nghĩ tính cơ động của nó rất cao. Ví dụ hôm nay em đang ở nhà bạn gọi đến trường gấp thì mình đến nhanh hơn. Điều đó rất tiện lợi. Và có thể nó có thêm những chức năng khác như nghe nhạc, chơi điện tử thì có thể có, có thể không tuỳ. Có thể có một cái tiện lợi như thế này, ví dụ những lúc mình muốn nói chuyện riêng tư có điện thoại công cộng cả gia đình dùng với nhau mình nói không tiện, mình có cái điện thoại di động ra vườn mình nói chuyện sẽ tiện hơn. Vì khi mình nói chuyện riêng tư, điện thoại cố định thì chưa chắc người đó có ở đó để nghe, mà cũng tiện hơn, và mình có thể lựa chọn địa điểm thích hợp hơn, thí dụ như mình nói chuyện riêng tư thì mình mà có người đi qua mình nói chuyện bằng điện thoại cố định cũng bất tiện không muốn nói nữa sợ câu chuyện của mình lọt vào người thứ ba. (Nữ, Sinh viên, Tp. Hồ Chí Minh). Nhìn chung, dù các chức năng điện thoại rất nhiều, rất nhiều người sử dụng lựa chọn các loại máy có nhiều chức năng như chụp hình, quay phim, nhạc MP3, phim MP4, kết nối Bluetooth, cổng USB, hỗ trợ thẻ nhớ mở rộng SD /MMC, gọi video trực diện, quản lý các ứng dụng văn phòng tuy nhiên việc chức năng nhiều sử dụng ít là một thực tế đang xảy ra.

– Số cuộc gọi hàng ngày

Kết quả điều tra của chúng tôi cho thấy phần lớn người dân gọi ĐTDĐ dưới 5 lần / ngày (67.5%). Chỉ có (10.0%) trong số những người được hỏi gọi trên 10 lần / ngày.

Xét theo tương quan với nghề nghiệp, trên 70% nhóm sinh viên, học sinh và công nhân gọi ĐTDĐ dưới 5 lần / ngày. Cán bộ viên chức Nhà nước và công ty tư nhân sử dụng điện thoại gọi dưới 10 lần / ngày nhiều hơn nhóm sinh viên (32.8% và 31.4% so với 12.4%). Đặc biệt, những người buôn bán, làm tự do dùng phương tiện này với mức độ cao hơn (23.3%) gọi trên 10 lần / ngày. Không có sự khác biệt đáng kể về số lần gọi điện của người dân Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh, hay giữa nam và nữ. (Cho dù vậy, trong một nghiên cứu của AT &T với 1006 người ở Na Uy cho kết quả rằng, nam giới thường gọi điện thoại nhiều hơn nữ giới. Tuy nhiên, khoảng cách này ngày càng bị thu hẹp. Ví dụ, trong cuộc khảo sát vào tháng 5/2007, trung bình 1 tháng nam giới gọi 458 phút, trong khi đó ở nữ là 453 phút (chênh lệch 5 phút). Các cuộc khảo sát trước đó cho thấy khoảng cách lớn hơn như năm 2002: nam: 589 phút; nữ: 394 phút; năm 2005: nam: 571 phút, nữ: 424 phút.) Chúng tôi nghĩ rằng, trường hợp Việt Nam cũng sẽ tương tự, có nghĩa rằng nam giới thường gọi ĐTDĐ nhiều hơn nữ giới, bởi lẽ: 1/ trong quan hệ giữa nam – nữ, nam giới thường muốn chủ động gọi điện hơn; 2/ nữ giới thường tiết kiệm hơn và cho dù họ là người thích nói chuyện, và luôn tỏ ra “lắm lời” thì cũng ít khi sử dụng ĐTDĐ của mình vào chuyện đó. Tuy nhiên, tất cả những suy nghĩ trên chỉ tạm dừng ở giả thiết, chúng ta vẫn cần có những nghiên cứu sâu hơn để kiểm chứng.

– Đối tượng được gọi điện thoạiSắp xếp theo thứ tự một cách tương đối từ cao xuống có kết quả sau: 1/ Bạn bè; 2/ Đồng nghiệp; 3/ Bố, mẹ anh chị em ruột; 4/ Người yêu; 5/ Vợ, chồng; 6/ Đối tác khác giới.

Giữa các nhóm nghề nghiệp khác nhau cũng có một số điểm chú ý như sau: trong khi những người cán bộ viên chức Nhà nước tỷ lệ gọi điện cho vợ / chồng chiếm (35.9%), thì những người nhóm sinh viên, học sinh hay gọi điện cho bố / mẹ, anh chị em ruột tương ứng (49.0% và 46.4%). Nhóm buôn bán, làm tự do thì có (41.0%) gọi điện cho đối tác khác giới, cao hơn hẳn các nhóm nghề khác. Trên 40% những người làm nghề buôn bán, làm tự do, cán bộ viên chức Nhà nước, công nhân và công ty tư nhân gọi điện cho đồng nghiệp, bạn học trong khi đó tỷ lệ này ở nhóm học sinh và sinh viên chỉ có (7.1% và 18.5%). Xét theo tương quan giới tính, nam giới gọi điện thoại cho đồng nghiệp của mình nhiều hơn nữ giới (48.5% so với 29.6%). Xét tương quan giữa tuổi với người được gọi điện thoại có một số khác biệt đáng chú ý như sau: từ 35 tuổi trở xuống thì tỷ lệ gọi cho bạn bè nhiều hơn gọi cho người “6Bhác, nhưng từ 36 tuổi trở lên phần đông lại gọi cho đồng nghiệp của mình (63.5%). Độ tuổi càng cao thì tỷ lệ gọi cho đồng nghiệp càng nhiều: 18 tuổi trở xuống có (14.6%), khoảng từ 19-25 tuổi là (23.7%), nhưng từ 26 tuổi trở lên có trên 50%. Gọi điện cho vợ / chồng ở nhóm tuổi từ 36 trở lên cao gấp 6 lần khoảng tuổi 19-25 (8.3%), gấp 4, 1 lần độ tuổi 18 trở xuống (12.2%) và gấp 1, 7 lần những người trong độ tuổi 26-35 (29.9%).

– Về hoạt động nhắn tin+ Số lần nhắn tin hàng ngàyNhư vậy, nhắn tin dưới 5 lần / ngày là phương án được lựa chọn nhiều nhất (60.4%) và chỉ có tỷ lệ nhỏ (12.2%) trong số những người được hỏi có nhắn tin trên 10 lần / ngày. Xét theo tương quan nghề nghiệp, nhóm học sinh – sinh viên nhắn tin nhiều hơn cả, cán bộ công nhân viên chức nhắn tin ít nhất.

+ Nhắn tin cho ai:Sắp xếp theo thứ tự cao xuống thấp các đối tượng được nhận nhắn tin gồm: 1/ Bạn bè; 2/ Người yêu; 3/ Đồng nghiệp; 4/ Bố mẹ, anh chị em ruột; 4/ Vợ, chồng; 5/ Đối tác khác giới

Xếp theo thứ tự Top 3 theo tương quan giới tính vớiđối tượng được nhắn tin kết quả là:

– Nam: 1/ Bạn bè; 2/ Đồng nghiệp; 3/ Người yêu.- Nữ: 1/ Bạn bè; 2/ Người yêu; 3/ Bố mẹ, anh chị em ruột.Trong nghiên cứu, chúng tôi cũng tiến hành thu thập hàng loạt tin nhắn. Sau đây là một ví dụ về trao đổi tin nhắn giữa hai người đang yêu (đã được chuyển sang phông chữ có dấu để dễ đọc):

Ngày 1.12h42: Nữ: Anh đi mạnh khoẻ nhé. Uống ít rượu thôi. Nhớ tự biết chăm sóc cho mình nhé. Khi nào rảnh công việc thì nhắn tin, điện thoại cho em nhé, nếu ngại giặt quần áo thì mang về tạo việc làm cho em. Khi nào về nhắn tin em ra đón nhé. Thế gửi băng cho ai đó để em gửi nhé. Em yêu. Kiss you. à từ giờ em nghe lời anh, không làm anh buồn nữa.17h49: Nữ: Anh đi đến đâu rồi. Đã tới nơi chưa. Nghỉ ngơi ở đâu?Nữ: Anh đang ngủ à. Đến nơi chưa. Đang làm gì vậy?19h47: Nữ: Em buôn qua điện thoại và nhắn tin mấy lần nhưng không thấy anh trả lời. Giờ em và chị Liên đang ngồi ở Lake View uống nước. Anh rảnh nhắn tin cho em.21h26: Nam: Anh vừa tới Hà Nội.22h24: Nữ: Anh về ăn uống gì chưa. Đang tắm à. Em điện thoại mấy lần nhưng không thấy nghe. Thế xe hỏng thì bao giờ đi. Khi nào đi nhắn tin em đưa đi. Thế anh yêu đang làm gì đấy.Ngày 2:12h01 Nam: Anh đang ở BSAC (?). 1h đi.12h03 Nữ: Anh đang ở đâu. Hôm nay có đi công tác không? Sếp chiều bảo vệ. Em đang ở cơ quan.18h13: Nữ: Em đang ở nhà hàng Táo Đỏ cùng cơ quan. Anh đến nơi chưa. Anh mệt lắm không.19h32: Nam: Anh đang ở Hà Tĩnh.Ngày 3: (2 ngày sau)22h30: Nữ: Em đang ở nhà. Thế anh ở đâu rồi?22h36: Nữ: Em đang ở nhà. Thế anh đang ở đâu rồi. Em hỏi anh không nhắn tin lại. Định đốt tiền của em à. Hi Hi.22h55: Nữ: Anh ơi, tự nhiên anh nhắn tin làm em lại nghĩ đến anh. Nhớ quá. Anh ơi sao thời gian trôi lâu thế. Bao giờ đến 15/8? Kiss. Anh rảnh nhớ nhắn tin cho em nhé. 1000 lần / đấy em muốn nghe tiếng nói của anh.23h01: Nam: Anh vừa về đến khách sạn.23h13: Nữ: Chúc anh yêu ngủ ngon, mơ giấc mơ đẹp. I love. Anh hứa với em không được “vượt sông” đâu nhé. Lơ mơ là đánh đòn đấy. I love. Miss y much.23h18: Nam: Tuần sau là ở Đà Nẵng.23h23: Nam: Em yêu đang ở đâu?23h30: Nữ: Em vừa nháy máy nhà. Em ở nhà đang cầm quyển sách đọc nhưng không hiểu nội dung vì nhớ anh yêu quá. Anh ngủ và ăn uống đều đặn vào. Giữ gìn sức khoẻ. Mang đồ về em giặt. Đừng chơi khuya quá. Yêu anh 1000c.23h34: Nam: Vừa thuê giặt rồi.Tất nhiên, đây là một trong vô vàn tin nhắn vẫn diễn ra hàng ngày. Và, tin nhắn cũng đã được ghi rõ để mọi người có thể hiểu mà không có những nhầm lẫn về câu từ. Thực tế, tin nhắn có thể về rất nhiều nội dung khác nhau (mà nội dung câu chuyện ở trên là một thí dụ). Chúng ta cần phải có nhiều tin nhắn hơn để có thể phân tích một cách khách quan hơn về hoạt động này. Tuy nhiên, chỉ qua một tin nhắn như trên, chúng ta cũng có thể đưa ra một vài kết luận như sau: 1/ nữ thường nhắn tin dài dòng hơn nam; 2/ nữ thường nhắn tin lại nhanh hơn nam; và ẩn đằng sau những ngôn ngữ nhắn tin (vốn không tồn tại khi đã chuyển tải do cần phải được viết đầy đủ, dễ hiểu cho người đọc) là việc sử dụng những ngôn ngữ viết tắt, tiếng Anh trở nên thông dụng trong tin nhắn.

Bên cạnh đó, nếu có nhiều dữ liệu và phân tích sâu hơn, chúng ta sẽ thấy rằng cách viết tin nhắn cũng có thể thể hiện tính cách của người nhắn tin. Nhìn chung, việc sử dụng ĐTDĐ đã rất phổ biến, đặc biệt ở các đô thị lớn. Sử dụng ĐTDĐ đã trở thành nguyên nhân thay đổi của nhiều thói quen sinh hoạt xã hội và văn hoá. (Chúng tôi sẽ trình bày kỹ ở các phần sau.)Về mặt kỹ thuật, việc nghẽn mạng, không có sóng ở những khu vực và những dịp nhất định là mối bận tâm xã hội. Những đổi mới của các thế hệ ĐTDĐ cũng gây ra những cơn sốt trong giới trẻ…1.2.2. Các nhà cung cấp dịch vụ Internet và những hoạt động được ưa thích trên mạng

Bảy nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) ở Việt Nam là VDC (cơ quan quản lý cổng truy nhập Internet của Việt Nam), FPT, Netnam, Công ty điện tử viễn thông Sài gòn (SPT), Công ty điện tử viễn thông Hà Nội (HanoiTelecom), Công ty Cổ phần dịch vụ Internet OCI, Công ty Điện tử viễn thông Quân đội VIETEL Tính đến tháng 9/2006, thị phần các ISP ở Việt Nam như sau:

Thị phần kênh Internet trực tiếp quy đổi tốc độ 64Kbps- Thị phần thuê bao ADSL- Thị phần thuê bao Internet gián tiếp trả sauNhư vậy, VNPT, FPT và Viettel là ba nhà cung cấp dịch vụ chiếm tỷ lệ khống chế thị trường Internet tại Việt Nam.

– Khách hàng chủ yếu của Internet

Thị trường Internet Việt Nam có một đặc điểm quan trọng là đa phần số người sử dụng Internet là thanh niên. Điều này cũng thật dễ hiểu nếu chúng ta biết rằng, Internet nói riêng và máy vi tính nói chung mới xuất hiện ở Việt Nam (thậm chí trên thế giới) chưa lâu. Đây là một loại hình công nghệ mới đòi hỏi người sử dụng cần có tư duy nhanh nhạy với cái mới, tốt nhất là có một chút vốn tiếng Anh tối thiểu về máy tính, và những hiểu biết cơ bản về kỹ thuật phần cứng, phần mềm. Khoảng thời gian và những kiến thức khá mới đó dường như không phải là thế mạnh cho những người có tuổi. Vì thế cho nên, những người còn trẻ hoặc tương đối trẻ (dưới 45 tuổi) đang là những người làm chủ thị trường máy tính, Internet Việt Nam hiện nay.- Địa điểm sử dụng Internet:

Tại điểm truy cập Internet: 56.2%Tại nhà: 12.4%Tại trường học (nơi làm việc): 11.9%Tại nhà người quen, bạn bè: 1.7%Tại điểm truy cập Internet + tại trường (nơi làm việc): 5.7%Tại trường (nơi làm việc) + tại nhà: 8.1%Tại điểm truy cập Internet + tại nhà: 3.8%Như vậy, kết quả điều tra cho thấy, các điểm truy cập Internet công cộng (quán Internet) là nơi gặp gỡ, điểm hẹn thường xuyên nhất. Đặc biệt đáng lưu ý là kể cả những người dùng Internet ở nhà, hay ở công sở, trường học cũng thường xuyên lui tới các quán Internet. Điều này chứng tỏ rằng, ở các đô thị lớn của Việt Nam (trong đó Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh là các ví dụ điển hình nhất), các quán Internet đóng vai trò quan trọng trong phổ cập việc sử dụng Internet1. Tăng cường quản lý Internet cần phải chú ý đến địa điểm truy cập này.

Xem thêm: Giải Bài Tập Toán Lớp 4 Trang 70 Tập 2, Bài Tập Toán Lớp 4 Trang 70

– Thời gian sử dụng Internet:Kết quả điều tra cho thấy, xét theo thứ tự một cách tương đối, người dân đô thị sử dụng Internet theo mức độ như sau: 1/ vài lần 1 tuần; 2/ 1 lần 1 ngày; 3/ 1 lần 1 tuần; 4/ vài lần 1 tháng; 5/ 1 lần 1 tháng, và 6/ nhiều lần 1 ngày. Xét theo mức độ “74hường xuyên: Cán bộ viên chức Nhà nước là người sử dụng Internet thường xuyên nhất (43.0%) sau đó là những người làm việc cho các công ty tư nhân (38.7%), trong khi đó, sinh viên lại là người sử dụng Internet ít thường xuyên hơn cả.

– Những hoạt động được ưa thích trên mạng

Nghiên cứu về các phương tiện truyền thông mới là một chủ đề đang chiếm sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới. Điều này xuất phát từ nhiều lý do, cả từ sự mới mẻ mà các phương tiện truyền thông này đem lại cho con người và thế giới; mức độ quan trọng và tầm ảnh hưởng sâu rộng của các phương tiện ấy đối với xã hội; hay sở thích cá nhân của các nhà nghiên cứu trẻ muốn tìm kiếm con đường đi khác so với những công trình nghiên cứu đi trước; cũng như từ rất nhiều lý do khác. Trong các công trình nghiên cứu, hàng loạt các vấn đề lý thuyết đã được đặt ra, áp dụng, và chúng tôi cũng muốn điểm qua một vài quan điểm lý thuyết cũng như những ảnh hưởng được xem là chung nhất mà các nhà nghiên cứu đã đề cập đến khi nghiên cứu về các phương tiện truyền thông mới, có thể giúp ích cho việc nghiên cứu tại Việt Nam.

Công nghệ truyền thông mới ra đời phục vụ những nhu cầu của con người. Giống mọi công nghệ khác, một chu trình mới lại bắt đầu: Dịch vụ mới → Nhu cầu mới → Lối sống mới → Thói tật mới. Như chúng tôi đã trình bày, rõ ràng các phương tiện truyền thông mới đã có ảnh hưởng lớn đối với đời sống của người dân đô thị. Trong tương lai tới đây, những ảnh hưởng này ngàycàng trở nên mạnh mẽ hơn và chi phối nhiều lĩnh vực thuộc đời sống xã hội.

2.1. Các phương tiện truyền thông mới và quá trình cá nhân hóaTheo chúng tôi, ảnh hưởng quan trọng nhất của các phương tiện truyền thông mới đối với văn hóa nói riêng, các lĩnh vực khác của đời sống xã hội nói chung là chúng thúc đẩy quá trình cá nhân hóa trên mọi lĩnh vực. Cá nhân hóa không phải là một quá trình mới. Nói theo một cách nào đó, bản chất của con người thích và luôn có nhu cầu tư hữu. Chủ nghĩa tư bản luôn khuyến khích quá trình tư hữu hoá, và thực chất quá trình tư hữu hóa trở thành một trong những động lực quan trọng nhất thúc đẩy xã hội phát triển ở các nước tư bản. Cá nhân hóa không nhất thiết đồng nghĩa với tư hữu hoá, nhưng là một biểu hiện quan trọng của tư hữu hoá.

Nếu chủ nghĩa tư bản đề cao tư hữu hoá, cá nhân hóa thì để thực sự thúc đẩy quá trình này, các phương tiện truyền thông mới chính là các công nghệ hoàn chỉnh nhất tính đến thời điểm này. Trong một thế giới ảo, Internet cho phép mỗi người có những địa chỉ riêng, có thể hoàn toàn thoả mãn những ý thích, mong muốn của mình thông qua chat, thư điện tử (e-mail) và blog… Chúng ta có quyền nói những điều chúng ta thích trên mạng chứ không cần phải nói những điều mà người khác muốn. Mọi người yêu thích Blog vì ở đó người ta có quyền được nói và được phát biểu những suy nghĩ của mình. Đó là biểu hiện cụ thể nhất của quá trình cá nhân hoá. Điện thoại di động cho phép mỗi người được sở hữu một phương tiện liên lạc riêng tư, không buộc phải dùng chung và chịu sự theo dõi của những người khác. Và đây thực sự là một nhu cầu đang tăng lên và cần sự đáp ứng trong bối cảnh xã hội mới. Nhiều người còn nói hơi quá khi cho rằng ĐTDĐ là một vật dụng riêng tư không thể thiếu của con người hiện đại. Không gian riêng của bạn nằm trong máy ĐTDĐ. Bạn có thể trao thân thể của mình cho một người khác chứ nhất thiết không bao giờ được phép chia sẻ thông tin, tin nhắn trong chiếc điện thoại của mình.

Phải mất ròng rã 38 năm trời cho chiếc radio làm một cuộc hành trình thâm nhập vào 50 triệu gia đình Mỹ và 13 năm cho truyền hình thực hiện một cuộc chinh phục tương tự. Nhưng Internet chỉ cần vài năm đã lan rộng khắp thế giới. Một trong những nguyên nhân ít được nói đến khiến Internet nhanh chóng chinh phục thế giới là bởi nó phản ánh được tính cá nhân trong xã hội hiện nay cũng hệt như truyền hình phản ánh tính phổ quát trong thập kỷ 50. Internet không chỉ cá nhân hóa mà nó mang tính tức thời, tương tác và có sức lôi cuốn.

Quá trình cá nhân hóa có thể có lợi hoặc hại. Trong một môi trường văn hoá, ai cũng muốn thể hiện cái tôi của mình sẽ khiến những trật tự của tập thể bị vi phạm nhưng điều đó lại khuyến khích sự năng động của cá nhân. Trong bối cảnh xã hội hiện thời, việc đề cao tính năng động của cá nhân đang được đánh giá cao hơn việc duy trì các trật tự, đặc biệt trong giới trẻ.

Trong các nhân tố làm phẳng thế giới được T. Friedman đề cập tới, tính chất số, di động, cá nhân và ảo được xem là một trong những yếu tố quan trọng. Cá nhân hóa thực sự đang là một nhu cầu trong xã hội khi mọi người cần có không gian riêng dành cho mình, có những đồ vật thể hiện tính cách riêng của mình, và đây cũng là cơ hội cho các phương tiện truyền thông mới Không phải tình cờ hay ngẫu nhiên mà quảng cáo về các hãng điện thoại luôn đề cập đến tính cách năng động, bản sắc cá nhân của người sử dụng thông qua các sản phẩm ĐTDĐ mới ra của họ, trong khi cách nhà cung cấp dịch vụ Internet cho ra đời những phần mềm, chương trình để mỗi cá nhân có thể thể hiện mình. Viết blog ngày càng phổ biến hay việc tải hình ảnh của chính lên mạng để lưu trữ, gửi cho bạn bè, hay sự ra đời và phát triển nhanh chóng của YouTube để chia sẻ các hình ảnh riêng tư, độc đáo hay sự bùng nổ của game online chỉ là những thể hiện cụ thể của quá trình cá nhân hoá. Nghiên cứu của Lycett và Dunbar cho thấy “ĐTDĐ là đồ dùng cao cấp để khẳng định địa vị xã hội của một người. Nó có vị trí đặc biệt trong giao tiếp kết bạn. Nó gây ấn tượng nhiều hơn là máy tính xách tay, dù máy tính xách tay có giá thị trường cao gấp 20 lần so với ĐTDĐ. Mang máy tính xách tay vào quán xá thì không…. mốt bằng ĐTDĐ”.2

Quá trình cá nhân hóa (nhờ sự xuất hiện của các phương tiện truyền thông mới) không chỉ có tác động đến những thay đổi xã hội mà nó còn đặt ra bài toán cho các nhà sản xuất, đặc biệt đối với các nhà sản xuất ĐTDĐ. Chúng ta đều biết rằng văn hóa chi phối nhất định đến cách thức chấp nhận những sản phẩm công nghiệp hay hình dáng của những sản phẩm nào đó. Với một số nước, các sản phẩm màu trắng, đen rất được ưa chuộng, trong khi đó, ở những nước khác màu sắc sặc sỡ lại tiêu thụ tốt hơn. Đối với ĐTDĐ cũng có sự khác biệt ấy. Một nghiên cứu của Jan Chipchase tại 10 thành phố rải rác toàn cầu cho thấy 60% nam giới thường để ĐTDĐ trong túi quần, 61% nữ giới để ĐTDĐ trong túi xách; 19% nam giới ở Bắc Kinh và 38% nam giới ở thành phố Ji Lin sử dụng bao ĐTDĐ ở thắt lưng trong khi đó chỉ 4% nam giới ở Milan, và không có ai ở Tokyo dùng bao da gài ở thắt lưng cho ĐTDĐ. Hay có nghiên cứu khác chỉ ra việc sản phẩm ĐTDĐ được người dân Trung Quốc, Việt Nam, Hàn Quốc gắn cho từng giới tính cụ thể, theo đó, việc sử dụng mẫu ĐTDĐ này chỉ dành cho nam giới hay nữ giới như Samsung E500, Motorola V3, LG SV590 màu hồng… Điều này cho thấy những khác biệt và chỉ ra cho các nhà sản xuất cách thức thiết kế và có những cách thức quảng cáo sản phẩm phù hợp với từng nền văn hoá.

Vai trò của cá nhân được đề cao. Điều này không chỉ được thể hiện trên các phương tiện truyền thông mới mà nó còn ảnh hưởng đến các phương tiện truyền thông truyền thống như truyền hình, báo viết hay đài phát thanh. Các chương trình có tương tác với các phương tiện truyền thông mới ngày càng phát triển như các bình chọn ca sỹ, diễn viên thông qua nhắn tin từ điện thoại, bình chọn qua mạng (Việt Nam Idol, Sao Mai điểm hẹn, Sao Mai, Gala cười…), hay giờ đây có cả các chương trình có tính tương tác cao với các phương tiện truyền thông mới như Sao Online, Bài hát Việt khi ý kiến cá nhân được thể hiện trực tiếp trên truyền hình hay kết quả bình chọn của họ có tác dụng trực tiếp đến kết quả của bài hát. Hàng loạt các chương trình truyền hình cho phép khán giả được hỏi trực tiếp các nhân vật truyền hình thông qua các phương tiện truyền thông mới. Nói chung, ĐTDĐ và Internet khiến cá nhân ý thức về cái tôi của mình một cách rõ ràng hơn.

Trong tương lai, việc những phần mềm giúp thể hiện “cái tôi” sẽ ngày càng phổ biến do nó đáp ứng đúng nhu cầu cá nhân hóa đang chiếm lĩnh thế giới mà chúng ta đang sống. Thời đại ngày nay là thời đại của các cá nhân. Chưa bao giờ, thế giới này có nhiều cá nhân như bây giờ, theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng.

2.2. Vòng xoáy của sự im lặngNăm 1974, Noelle Neumann giới thiệu khái niệm “vòng xoáy của sự im lặng” (spiral of silence) nhằm cố gắng giải thích một phần dư luận xã hội được hình thành như thế nào. Sự ra đời khái niệm này là do bà băn khoăn làm thế nào những người Đức lại ủng hộ những đường lối chính trị sai lầm dẫn đến sự thua cuộc, nhục nhã của một quốc gia trong những năm 1930-1940. “Vòng xoáy của sự im lặng” thực ra đề cập đến tại sao con người thường có xu hướng giữ im lặng khi họ cảm giác thấy quan điểm của mình là thiểu số. Bà cố gắng giải thích dựa vào ba giả định: 1) Con người có khả năng tự thống kê, một thứ giác quan thứ sáu, cho phép họ biết dư luận xã hội nào đang chiếm vị trí ưu trội, thậm chí không cần có sự tổ chức trưng cầu ý kiến; 2) con người luôn sợ bị cô lập và biết những hành vi như thế nào có thể dẫn họ tới việc bị xã hội cô lập; 3) con người không dễ bộc lộ các ý kiến thiểu số của mình, chủ yếu do lo sợ bị cô lập.

Con người càng tin vào ý kiến nào tương tự với ý kiến công luận ưu trội, họ càng sẵn lòng bộc lộ ý kiến của mình trước mọi người. Sau đó, nếu tình cảm công chúng thay đổi, người đó sẽ nhận ra rằng ý kiến của mình không còn được ưu thích và sẽ ít sẵn lòng thể hiện ý kiến đó ra trước mọi người. Khi ý kiến của cá nhân và công luận càng cách xa nhau, người đó càng không muốn thể hiện ý kiến của mình. Các ý kiến của thiểu số, khác biệt so với tư tưởng thống trị không có cơ hội được bày tỏ và chia sẻ trong xã hội vì nhiều lý do cả chủ quan và khách quan. Về chủ quan, những người có ý kiến khác với đa số không muốn bày tỏ ý kiến của mình khi họ biết rằng họ chỉ là thiểu số, và với danh tính rõ ràng họ sẽ bị cô lập dễ dàng; về khách quan, những ý kiến thiểu số không có phương tiện để thể hiện ý kiến của mình. Các phương tiện truyền thông đại chúng không sẵn sàng đăng tải những ý kiến trái chiều với các tư tưởng thống trị xã hội, đặc biệt trong các xã hội không dân chủ. Trên thực tế, tự do báo chí là một khái niệm tương đối khi bất cứ một hiện tượng xã hội nào cũng chịu sự chi phối đa chiều, đặc biệt từ chính trị hay kinh tế. Khi các phương tiện truyền thông đại chúng như truyền hình, báo chí, đài phát thanh chiếm vị trí ưu trội và là “quyền lực thứ tư”, lý thuyết của Noelle Neumann đáng để các nhà nghiên cứu xã hội chú ý, thậm chí được coi là lý thuyết trung tâm để giải thích về dư luận xã hội.

Các phương tiện truyền thông mới ra đời đã giúp phá bỏ một phần lớn “vòng xoáy của sự im lặng” vốn tồn tại dai dẳng trong suốt lịch sử phát triển của loài người. “Việc cá nhân hoặc các cộng đồng tải thông tin lên mạng đã là một nhân tố làm phẳng to lớn. Việc này đang được phổ biến bởi vì nền tảng của thế giới phẳng cho phép việc phổ biến này xảy ra và vì việc tải lên mạng đáp ứng được một nguyện vọng nhân văn sâu xa của các cá nhân là tham gia và khiến những người khác nghe thấy ý kiến của mình”.3 Giờ đây, hầu như ai cũng có cơ hội nói những tâm tư, nguyện vọng và ý tưởng của mình bất chấp ý kiến của họ có được xã hội chấp nhận hay không. Rất nhiều ví dụ trên thế giới và ở Việt Nam cho thấy, nhiều khi những ý kiến thiểu số trở nên thắng thế trong một bối cảnh xã hội ngày càng cởi mở hơn đối với những ý kiến khác biệt. Các phương tiện truyền thông đại chúng giờ đây đã tự nguyện hay “bị ép buộc” đăng tải các ý kiến cá nhân để thoả mãn xu hướng chung toàn cầu. Các phương tiện truyền thông mới luôn là diễn đàn để cho các ý kiến cá nhân có thể thể hiện. “Sự tan vỡ của các phương tiện truyền thông đang gây ra tình trạng thiếu nhất quán hoặc cần chọn lọc thông tin (như sự phân cực của xã hội Mỹ), nhưng mặt khác lại tạo ra hiện tượng phi tập trung hóa quyền lực và bảo đảm rằng đang tồn tại một sự thật trọn vẹn… ở đâu đó… trong các mảnh vỡ”.4

Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu cũng cho rằng các phản đối, ý kiến trái chiều trên mạng hay qua ĐTDĐ chỉ tồn tại ở dạng dư luận tiềm tàng và khó có khả năng làm thay đổi xã hội. Chỉ khi những nội dung này đượcphản ánh qua các phương tiện truyền thông đại chúng thì chúng mới tạo nên những thay đổi. Đó là những gì đã xảy ra ở nhiều nước trên thế giới, kể cả ở Việt Nam như các sự kiện thầy giáo Đỗ Việt Khoa, vụ gạ tình đổi điểm, hay việc phản đối Trung Quốc thành lập huyện Tam Sa v.v…

Sự lên tiếng của thiểu số sẽ giúp các xã hội trở nên dân chủ hơn (cho dù mặt trái của nó sẽ khiến xã hội trở nên hỗn loạn hơn khi có quá nhiều thông tin). Sự thật là, nhiều cơ quan hành chính đã mở cửa hơn đối với thông tin từ phía người dân. Các chính phủ đã mở các trang Web, hộp thư điện tử để các công dân của mình bày tỏ ý kiến của họ. Nhiều sự việc được phát giác không phải từ các cơ quan điều tra hay các phương tiện truyền thông đại chúng mà chính nhờ các phương tiện truyền thông mới, đặc biệt là Internet. Tuy nhiên, không phải vòng xoáy của sự im lặng đã bị phá bỏ hoàn toàn. Giờ đây, những người không thể tiếp cận được với công nghệ số và các phương tiện truyền thông mới trở thành những người bị rơi vào vòng xoáy của sự im lặng này. Đó là một phần sự thật của một thế giới với rất nhiều khoảng cách số.

2.3. Một không gian và thế giới số và ảo

Chúng ta đang sống trong một thế giới số và ảo. Sự ra đời của công nghệ số (trong đó được áp dụng rộng rãi trong Internet) đã biến thế giới chúng ta đang sống thành một thế giới điện tử, và dẫn đến nhiều thay đổi trong các hoạt động xã hội, và thậm chí đã có hẳn tiền tố e – đứng trước rất nhiều các lĩnh vực của đời sống xã hội như e -commerce (thương mại điện tử), e-book (sách điện tử), e-business (thương mại điện tử), econference (hội nghị điện tử), e-office (văn phòng điện tử), e-banking (ngân hàng điện tử).

Không gian số và ảo chính là những gì quan trọng nhất mà các phương tiện truyền thông mới như Internet và ĐTDĐ làm được cho người sử dụng. Chính không gian số và ảo đã khiến cho người sử dụng trở nên mạnh dạn và tự tin hơn trong các giao tiếp của mình và giúp họ thể hiện bản thân và “cái tôi” đối với xã hội.

Theo Lepastier, nguy cơ hiện nay là việc không phân biệt về giới tính, đặc biệt là do máy móc, những vật phi giới tính đang chiếm lĩnh xã hội. Đấy là một hiện tượng đặc biệt thấy rõ ở lớp trẻ với máy truyền hình, trò chơi video với những nhân vật ảo… Môi trường này thật đáng lo ngại và không hề giúp gì cho việc hình thành nhân cách.5

Các kết quả điều tra của chúng tôi đều cho thấy, bên cạnh game online, chat là một hoạt động được ưa thích nhất ở trên mạng. Trong việc sử dụng ĐTDĐ, nhắn tin cũng là một chức năng ưa thích (cho dù nhiều người cho rằng lý do chủ yếu của hoạt động này là kinh tế, nhưng lý do ngoài kinh tế cũng đáng để nhắc đến). Những hoạt động này giúp con người “thăng hoa” ở một thế giới khác, nơi họ có thể tự do bày tỏ tình cảm, tự biến mình thành những “người hùng”, và có thể khám phá bất cứ những gì mà họ muốn mà không chịu quá nhiều sự chi phối từ các sự kiểm soát từ những người khác.

Một thế giới số và ảo đã được hình thành thông qua các phương tiện truyền thông mới. Những nhân vật ảo cũng đã ra đời như gà ảo, ca sỹ ảo hay người mẫu ảo. Nhiều người sử dụng Internet đã say sưa với thế giới ảo ấy thậm chí còn hơn so với thế giới thật mà họ đang sống. Có nhiều lý do khiến thực tại ảo trở nên phổ biến và thu hút người sử dụng từ những nguyên nhân chủ quan như nó có thể giúp người sử dụng thoát khỏi những khó khăn của cuộc sống thực tại, giúp họ tự tin hơn trong các giao tiếp thường ngày. Trong thế giới ảo, con người có thể bộc lộ bản năng một cách dễ dàng, chia sẻ tâm tư, tình cảm thầm kín mà đôi khi những điều đó khó thể hiện trong đời thực… Hay những nguyên nhân khách quan như cuộc sống xã hội quá gấp gáp đã không trang bị cho các cá nhân những phương tiện giải thoát ngoài thực tại ảo, mối quan hệ xã hội hay trong gia đình lỏng lẻo… Nói tóm lại, giao tiếp ảo có khả năng giúp tái lập thăng bằng tâm lý – xã hội – văn hóa cho người sử dụng các phương tiện truyền thông mới. Và thực tại ảo cũng có những tác động tiêu cực nhất định. Trong thế giới ảo, khi con người bị lôi cuốn quá mức sẽ dẫn đến những bê trễ trong công việc, học hành. Ngôn ngữ của người chơi cũng bị ảnh hưởng do sự xa rời bối cảnh thực tế và những câu chửi thề được đưa lên mạng. Người tham gia đôi khi đặt mục đích của thế giới ảo cao hơn mục đích ngoài thực tế. Họ có thể rơi vào hội chứng ám ảnh, luôn hình dung về thế giới game và đôi khi coi đó là cuộc sống thực của mình. Những sự vật hiện tượng của đời sống thực đều được họ coi như thực tế của thế giới ảo và họ cư xử như cách mà các nhân vật trong thế giới ảo cư xử. Điều tra của chúng tôi cho thấy, có một tỷ lệ khá lớn số người được hỏi (30.3%) cho rằng, tác dụng tiêu cực của Internet chính là làm gia tăng các giao tiếp ảo giảm các giao tiếp trực tiếp, vốn cần thiết cho môt xã hội mà mọi người vốn đã rất bận rộn cho công việc của mình và không có nhiều thời gian dành cho gia đình và người thân.

Kết hôn ảo cũng là một ví dụ. Đây là một trò chơi rất phổ biến trong giới trẻ Trung Quốc và chắc sẽ có ảnh hưởng tới giới trẻ Việt Nam. Trong trò chơi trên mạng này cô dâu chú rể nhận lời chúc mừng từ bạn bè và khách. Lễ cưới có pháo hoa và một bữa tiệc thịnh soạn không khác gì một đám cưới thông thường tại Trung Quốc. Chỉ duy nhất khác thường là nó diễn ra trên mạng. Người chơi có thể sống một cuộc sống như bao gia đình bình thường khác, từ kết hôn qua đăng ký với văn phòng luật, chăm sóc gia đình, con cái và cả ly hôn. Tất cả đều diễn ra thông qua bàn phím và chuột.

Khác với những phương tiện truyền thông đại chúng trước đây, đặc biệt là truyền hình, nơi mà con người chủ yếu bị động trong việc hình thành thế giới cho riêng mình6, các phương tiện truyền thông mới ra đời đã sáng tạo ra một thế giới nữa cho loài người: đó là một thế giới số và ảo mà con người có thể sống và can thiệp như một thế giới thật. (Trên thực tế, tôn giáo cũng tạo cho loài người một thế giới ảo, tuy nhiên, công nghệ đã tạo cho con người một thế giới ảo khác, một thế giới ảo nhưthật, nơi con người có thể tác động và can thiệp được vào thế giới ấy, và có sự phản hồi thực sự để đôi khi họ biến những thứ “ảo” đó thành những điều có thật trong cuộc sống). Chấp nhận có một thực tại ảo đang tồn tại song hành cùng với thế giới thực mà chúng ta đang sống là điều mà mỗi người phải tìm cách thích nghi vì trong tương lai thế giới ảo ấy sẽ còn ảnh hưởng mạnh mẽ hơn nữa đối với cuộc sống của chúng ta nhờ có sự can thiệp của các công nghệ truyền thông mới.

Xem thêm: Bộ 36 Đề Thi Học Kì 1 Lớp 3 Năm 2020, Đề Thi Học Kì 1 Lớp 3 Môn Toán Năm 2020

2.4. Không biên giới

Lịch sử loài người cho thấy, kiến thức được lan truyền theo nhiều phương cách và trải qua một quá trình tiến hóa từ đơn giản đến phức tạp, từ chậm đến nhanh và từ bó hẹp trong các giới hạn địa lý đến vượt qua mọi biên giới. Kiến thức của loài người đã được những đôi chân của những nhà tu hành, những người truyền giáo đưa đi một cách chậm chạp, rồi được tăng tốc bởi kỹ thuật in ấn, điện tín và sóng vô tuyến. Cùng với sóng vô tuyến, công nghệ thông tin và hệ thống mạng lưới hàng triệu bộ nhớ điện toán đã biến các biên giới quốc gia trở nên mong manh hơn bao giờ hết (nếu không muốn nói là đã bị biến mất).

Công nghệ thông tin và các phương tiện truyền thông mới chính là một trong những nhân tố làm “phẳng thế giới”, thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa ở mọi ngõ ngách của cuộc sống. Với một máy tính nối mạng, chúng ta có thể biết mọi việc đang xảy ra trên thế giới, có thể nói chuyện với bạn bè và người thân dù chúng ta có ở đâu chăng nữa. Với một máy ĐTDĐ, chúng ta có thể giữ liên lạc bất kỳ lúc nào, không những thế, với các chức năng đã và sẽ được tích hợp trong các phương tiện truyền thông mới, chúng ta có thể biết được nhiều thông tin hơn rất nhiều như chúng ta đang ở đâu, sẽ gặp ai và làm gì, chúng ta có thể làm hay họp hành với bạn bè quốc tế ở ngay tại nhà mình mà không nhất thiết phải đi đâu cả, hay kiểm soát hành vi của con cái, an ninh của ngôi nhà của mình từ các thiết bị định vị.

Với một thế giới không biên giới, nhiều người đang lo ngại một trào lưu Mỹ hóa đang xảy ra do công nghệ phần lớn chịu sự chi phối của một nước Mỹ hùng mạnh. Khi một quốc gia chi phối thế giới bằng kinh tế và công nghệ, họ cũng đồng thời chi phối luôn cả văn hóa và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Tuy nhiên, thực tế không chỉ đơn giản một chiều như vậy. Công nghệ vốn mang tính trung tính. Có lợi hay có hại tuỳ thuộc vào cách sử dụng của con người. Sự thực cho thấy, nhờ vào các công nghệ truyền thông mới, đặc biệt là Internet, nhiều nền văn hóa ít được biết đến được bảo tồn và nhiều người biết đến hơn. Không chỉ những nền văn hóa đang bị đe doạ, mọi nền văn hóa hay mọi cá nhân đều có thể có tiếng nói trên mạng để có thể nhận được sự lắng nghe của mọi người. Mỹ có cuộc chiến chống khủng bố được đăng tải rộng rãi và rầm rộ trên mọi phương tiện truyền thông thì Al Quaeda cũng sử dụng Internet như một phương tiện chống Mỹ. Trong một thế giới không biên giới được hỗ trợ bởi các phương tiện truyền thông mới, mọi người đều có tiếng nói riêng của mình.

Nhờ xoá bỏ được biên giới quốc gia thông qua các phương tiện truyền thông mới và giao thông thuận tiện, các cá nhân có thể cho phép mình năng động hơn nữa, đặc biệt trong công việc. Giờ đây, trên thế giới, di cư trí thức đang ngày càng trở nên phổ biến khi một nhà khoa học vừa có thể làm việc ở một nơi xa nhà nhưng vẫn có thể liên hệ thường xuyên với người thân, gia đình. Singapore hay Mỹ là một ví dụ điển hình thu lợi được từ làn sóng di cư trí thức này. Và công nghệ truyền thông mới là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất để thúc đẩy làn sóng di cư trí thức ấy.

Quá trình toàn cầu hóa với các sản phẩm có tính toàn cầu, tri thức không biên giới cũng đã khiến cho các sản phẩm truyền thông mới có chỗ đứng vững chắc trong mọi xã hội. Sự ra đời của các công nghệ truyền thông mới phù hợp với tiến trình này, và vì vậy, trong tương lai, sẽ ngày càng có nhiều ứng dụng cho các công nghệ truyền thông mới để chúng trở thành các phương tiện đa chức năng, hữu dụng hơn cho quá trình toàn cầu hoá.

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Phương trình