tiểu luận tình yêu đồng giới

Đang xem: Tiểu luận tình yêu đồng giới

Luận văn thạc sĩ ngành luật: Kết hôn giữa những người song tính và chuyển giới dưới góc độ quyền con người, cho các bạn tham khảo

DOWNLOAD ZALO 0932091562 at BẢNG BÁO GIÁ DỊCH VỤ VIẾT BÀI TẠI: LUANVANPANDA.COM

Xem thêm: Gợi Ý 4 Mẫu Bàn Tiết Kiệm Diện Tích Với Những Mẫu Bàn Ăn Thông Minh Mở Rộng

2 Comments 0 Likes Statistics Notes

Xem thêm: Khóa Học Chốt Sale Trực Tiếp, Kỹ Năng Bán Hàng Chuyên Nghiệp: Chốt Sale

12 hours ago   Delete Reply Block

Luận văn: Kết hôn giữa những người song tính và chuyển giới, HOT

1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ HẠNH KÕT H¤N GI÷A NH÷NG NG¦êI LGBT D¦íI GãC §é QUYÒN CON NG¦êI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2015 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ HẠNH KÕT H¤N GI÷A NH÷NG NG¦êI LGBT D¦íI GãC §é QUYÒN CON NG¦êI Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số: 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. BÙI MINH HỒNG HÀ NỘI – 2015 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Lê Thị Hạnh 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………………………. 1 Chương 1: TỔNG QUAN VỀ CỘNG ĐỒNG NGƯỜI LGBT VÀQUYỀN KẾTHÔNCỦAHỌ DƯỚIGÓCĐỘ QUYỀNCONNGƯỜI …………. 6 1.1. Đồng tính, song tính là các thiên hướng tính dục……………………………….6 1.1.1. Đồng tính và nhận thức của xã hội về người đồng tính …………………………..8 1.1.2. Song tính và nhận thức của xã hội ……………………………………………………..11 1.2. Người chuyển giới………………………………………………………………….. 13 1.3. Người liên giới tính………………………………………………………………… 16 1.4. Những vấn đề cần giải quyết cho cộng đồng người LGBT ………. 18 1.4.1. Những vấn đề của người đồng tính……………………………………………. 18 1.4.2. Những vấn đề của người song tính ……………………………………………. 21 1.4.3. Những vấn đề của người chuyển giới ………………………………………… 21 1.5. Quyền con người và quyền kết hôn của người LGBT dưới góc độ quyền con người …………………………………………………………. 22 1.5.1. Khái niệm quyền con người……………………………………………………… 22 1.5.2. Vấn đề quyền kết hôn của người LGBT dưới góc độ quyền con người….. 26 Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG Xà HỘI, PHÁP LUẬT CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI LGBT Ở VIỆT NAM VÀ VẤN ĐỀ QUYỀN KẾT HÔN CỦA HỌ………………………………………………….. 36 2.1. Khái quát thực trạng cuộc sống và tình hình phát triển của cộng đồng người LGBT tại Việt Nam …………………………………….. 36 5. 2.1.1. Thực trạng người đồng tính và song tính tại Việt Nam hiện nay …… 41 2.1.2. Thực trạng người chuyển giới tại Việt Nam ………………………………………..48 2.2. Một số vấn đề pháp lý về quyền kết hôn của người đồng tính, song tính ………………………………………………………………………………………..53 2.2.1. Quyền kết hôn là quyền cơ bản của con người……………………………. 53 2.2.2. Thực trạng pháp luật về quyền kết hôn của người đồng tính, song tính…..54 2.3. Vấn đề pháp lý liên quan đến người chuyển giới tại Việt Nam hiện nay ………………………………………………………………………………… 69 2.4. Một vài khoảng trống trong quy định pháp luật và thi hành pháp luật đối với người LGBT……………………………………………….. 71 Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM ĐẢM BẢO QUYỀN KẾT HÔN CỦA NGƯỜI LGBT DƯỚI GÓC ĐỘ QUYỀN CON NGƯỜI ……………………………………………………………………….. 77 3.1. Sự cần thiết phải thay đổi nhận thức và pháp luật ở Việt Nam về vấn đề kết hôn giữa những người LGBT……………………. 77 3.2. Một số kiến nghị chung………………………………………………………….. 87 3.3. Một số kiến nghị cụ thể trong lĩnh vực dân sự ………………………… 89 3.3.1. Về quyền của người đồng tính, song tính …………………………………… 89 3.3.2. Về quyền của người chuyển giới ………………………………………………. 94 KẾT LUẬN………………………………………………………………………………………. 98 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………….. 99 6. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Đặc điểm tính dục của người LGBT 39 Bảng 2.2: Nhân tố ảnh hưởng đến việc cởi mở về thiên hướng tính dục 39 Bảng 2.3: Quan điểm của xã hội về đồng tính 44 Bảng 2.4: Lựa chọn của người đồng tính khi được cho phép kết hôn 56 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đồng tính, song tính và chuyển giới (viết tắt tiếng Anh là: LGBT) là vấn đề không còn quá mới mẻ trong đời sống xã hội hiện đại. Tuy nhiên, việc nhận thức một cách đầy đủ về cộng đồng người LGBT trong xã hội còn nhiều hạn chế. Mặt khác, các yếu tố chính trị, lịch sử, truyền thống văn hóa, xã hội, định kiến, sự kỳ thị… ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của người LGBT. Trong những bối cảnh như vậy, quá trình đấu tranh quyền của người LGBT và nâng cao nhận thức của xã hội về cộng đồng người này là một quá trình rất khó khăn và lâu dài. Hiện nay trên thế giới còn tồn tại khá nhiều các nhận thức khác nhau về người LGBT, trong đó có nhiều nước hình sự hóa mối quan hệ của người đồng tính, cấm tuyên truyền về người đồng tính, không chấp nhận việc sống chung giữa những người đồng tính; Ngoài ra còn tồn tại nhiều quan điểm kỳ thị, coi họ như những người bệnh hoạn, xa lánh và sợ hãi…. Chính vì vậy, cựu ngoại trưởng Mỹ Hillary Rodham Clinton từng phát biểu rằng quyền của người LGBT là một trong những thách thức nhân quyền còn lại của thời đại chúng ta <37>. Hiện nay, luật pháp về quan hệ người LGBT rất khác biệt ở các nước. Tính đến nay (tháng 6 năm 2015), trong tổng số 207 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, có 20 quốc gia chấp nhận hôn nhân đồng tính như Mỹ, Hà Lan, Úc…, 21 quốc gia khác chấp nhận đồng tính chung sống dưới hình thức kết hợp dân sự cùng với đó là một số tiểu bang Úc và Mexico. Ngược lại, có trên 80 nước xem đồng tính là tội phạm ở các mức độ khác nhau trong đó có một số nước áp dụng hình phạt tử hình dành cho tội này. Tại Châu Á hiện chưa có quốc gia nào chấp nhận hôn nhân hoặc kết hợp dân sự giữa những người đồng tính. 8. 2 Ở nước ta vấn đề kết hôn giữa những người LGBT đang được khá nhiều người quan tâm, đặc biệt là khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Bộ luật dân sự năm 2005, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì vấn đề này càng trở nên cấp thiết và thu hút sự quan tâm của không chỉ giới làm luật mà của toàn xã hội. Bởi lẽ việc cho phép hay không cho phép kết hôn giữa những người cùng giới tính ảnh hưởng không nhỏ đến quyền của cá nhân cũng như sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, chúng ta đang chỉ đặc biệt quan tâm đến vấn đề cho phép kết hôn hay không cho phép kết hôn giữa những người LGBT mà chưa thực sự quan tâm đến việc đảm bảo quyền được kết hôn của những người này dưới góc độ là một quyền con người. Trong khi đó, hôn nhân cần được xem là một quyền tự do chính đáng của mỗi người dù họ thuộc thiên hướng tính dục nào đi nữa. Xuất phát từ những lý do trên tôi chọn đề tài: “Kết hôn giữa những người LGBT dưới góc độ quyền con người” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành luật Dân Sự. Qua đề tài này, tôi mong muốn góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về đảm bảo quyền kết hôn của những người LGBT cũng như sự phát triển của xã hội. 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề kết hôn giữa những người LGBT đã được quan tâm, nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh khác nhau như y học, quyền con người, quyền kết hôn và có những tranh cãi về cho phép hay không cho phép kết hôn giữa những người LGBT. Hiện nay trên thế giới đang tồn tại những quan điểm khác nhau về vấn đề này. Có một số quốc gia cho phép kết hôn giữa những người cùng giới tính (đồng tính) hoặc cho phép họ sống chung dân sự; ngược lại có một số quốc gia lại hình sự hóa hành vi đồng tính, coi đó là một tội danh. Ở Việt Nam trong những năm gần đây vấn đề kết hôn giữa những người LGBT được khá nhiều người quan tâm, tuy nhiên các tài liệu nghiên 9. 3 cứu, có thể nói còn chưa phổ biến, đặc biệt là nghiên cứu dưới góc độ quyền con người. Các bài viết mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra thực trạng hoặc ủng hộ hay không ủng hộ kết hôn giữa những người cùng giới tính, như: “Kết hôn đồng giới theo pháp luật một số quốc gia”- Luận văn Thạc sĩ Luật học của Ngô Thị Thanh Thúy; bài “Mọi tình yêu đều bình đẳng” góp ý cho Dự thảo sửa đổi Luật hôn nhân và gia đình năm 2000” của tác giả Ngô Vương Anh đăng trên Tạp chí Cộng sản ngày 3/10/2013; bài "Cơ sở khoa học của hiện tượng đồng tính luyến ái" của tác giả Hoàng Xuân Dung trên Tạp chí tâm lý học, số 4 (121), 4- 2009; bài viết "Về mối quan hệ sống chung của người đồng tính trong Dự thảo Luật hôn nhân và gia đình (Sửa đổi)" của tác giả Trương Hồng Quang đăng trên trang tin của Bộ tư pháp; các bài phát biểu tại các Hội thảo như: Hội thảo “Lấy ý kiến cộng đồng người đồng tính về “Dự án luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hôn nhân và gia đình” do Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE) tổ chức, ngày 17/9/2014 tại Hà Nội; Thảo luận lấy kiến về dự thảo sửa đổi Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 của cộng đồng người đồng tính, song tính và chuyển giới (LGBT) tại Tiền Giang… Những công trình, bài viết nêu trên chủ yếu xoay quanh vấn đề thừa nhận hay không thừa nhận việc kết hôn giữa những người cùng giới tính, mà chưa đi sâu nghiên cứu đảm bảo quyền kết hôn dưới góc độ quyền con người. 3. Mục tiêu nghiên cứu 3.1. Mục tiêu tổng quát Mục tiêu của luận văn là giải quyết vấn đề quyền kết hôn giữa những người LGBT. Quyền kết hôn được xem là quyền tự do, chính đáng của mỗi người và quyền đó cần được đảm bảo không kể họ thuộc giới tính nào. 3.2. Mục tiêu cụ thể Để đạt được mục tiêu nêu trên, luận văn bám sát vào các mục tiêu cụ thể như: – Làm rõ quan điểm, nhận thức về những người LGBT. 10. 4 – Cơ sở lý luận và thực tiễn về quyền của những người LGBT. – Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn giữa những người LGBT. – Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật Việt Nam trong vấn đề kết hôn giữa những người LGBT. – Đề ra những giải pháp nhằm đảm bảo quyền kết hôn của những người LGBT và coi đó là quyền tự do chính đáng trong giai đoạn hiện nay. 4. Tính mới và những đóng góp của đề tài Đề tài đi vào nghiên cứu vấn đề quyết kết hôn của những người LGBT dưới góc độ quyền con người, khác với các công trình khác nghiên cứu về vấn đề cho phép kết hôn hay không cho phép kết hôn giữa những người cùng giới tính mà chưa đi sâu vào vấn đề đảm bảo quyền kết hôn của cá nhân như một quyền tự do chính đáng. Đóng góp mới về khoa học của luận văn: – Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật trong việc đảm bảo quyền kết hôn như một quyền tự do chính đáng của mỗi người không kể họ thuộc giới tính nào. – Trên cơ sở đánh giá thực trạng, chỉ ra được những bất cập hiện nay về việc kết hôn giữa những người cùng giới tính và đề ra các giải pháp có tính khả thi nhằm đảm bảo phần nào quyền con người. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu – Đối tượng nghiên cứu: Là thực tiễn tác động của các quy định về kết hôn giữa những người LGBT đến quyền con người của cá nhân. – Phạm vi nghiên cứu: Luận văn xem xét nghiên cứu việc xây dựng và áp dụng các quy định của pháp luật về kết hôn giữa những người LGBT và ảnh hưởng của nó đối với quyền con người trên lãnh thổ nước Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 2009 đến năm 2015. 11. 5 6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, trong đó có vấn đề về áp dụng pháp luật về kết hôn giữa những người LGBT. * Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của triết học Mác – Lênin về duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử và logic; phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn; phương pháp phân tích tổng hợp thống kê, so sánh, điều tra, khảo sát. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Tổng quan về cộng đồng người LGBT và quyền kết hôn của họ dưới góc độ quyền con người. Chương 2. Thực trạng đời sống xã hội, pháp luật của cộng đồng người LGBT ở Việt Nam và vấn đề quyền kết hôn của họ. Chương 3. Một số kiến nghị nhằm đảm bảo quyền kết hôn của người LGBT dưới góc độ quyền con người. 12. 6 Chương 1 TỔNG QUAN VỀ CỘNG ĐỒNG NGƯỜI LGBT VÀ QUYỀN KẾT HÔN CỦA HỌ DƯỚI GÓC ĐỘ QUYỀN CON NGƯỜI 1.1. Đồng tính, song tính là các thiên hướng tính dục Nhiều người thường quan niệm rằng đồng tính hoặc song tính là giới tính thứ ba bên cạnh hai giới tính khác là nam và nữ, song thực tế trong xã hội chỉ tồn tại hai giới tính là nam và nữ, còn đồng tính, song tính không phải là giới tính mà nó liên quan đến một khái niệm khác gọi là thiên hướng tính dục. Thiên hướng tính dục (hay còn gọi là xu hướng tính dục) là khái niệm dùng để chỉ việc chịu sự hấp dẫn về tình cảm, sự lãng mạn, trìu mến và hấp dẫn về tình dục của một người đối với những người cùng giới tính, khác giới tính hay cả hai giới tính… Trên thực tế hiện nay có bốn thiên hướng tính dục chính là dị tính, đồng tính, song tính và vô tính. Tồn tại phổ biến trong xã hội và dễ nhận thấy nhất đó là thiên hướng tính dục dị tính là những người bị hấp dẫn về mặt tình cảm và tình dục với những người khác giới tính và không mong muốn mình có giới tính khác với giới tính khi được sinh ra. Ví dụ như nam thì bị hấp dẫn bởi nữ và nữ thì bị hấp dẫn bởi nam. Chính vì đây là thiên hương tính dục phổ biến trong xã hội nên việc quan niệm và xây dựng mô hình gia đình với sự kết hợp giữa một nam và một nữ đã trở thành xu hướng đông đảo nhất và trở thành quan niệm truyền thống của nhiều quốc gia trên thế giới. Thiên hướng tính dục đồng tính là những người bị hấp dẫn bởi những người cùng giới tính với mình, không mong muốn có giới tính khác với giới tính của mình khi được sinh ra. Đồng tính có ở cả nam giới (tiếng anh gọi là Gay) và nữ giới (tiếng anh gọi là Lesbian). Thiên hướng tính dục song tính là những người không cho rằng bản 13. 7 thân họ mang giới tính khác với giới tính sinh học từ khi được sinh ra nhưng họ lại bị hấp dẫn tình cảm và tình dục bởi cả hai giới tính nam và nữ. Song tính khác với thuật ngữ lưỡng tính, lưỡng tính thường được hiểu là một người mang cả giới tính nam và nữ, đây là một hiện tượng rất hiếm gặp trong cuộc sống, người lưỡng tính thực sự thì trong cơ thể có cả buồng trứng và tinh hoàn, còn song tính là người có hai thiên hướng tính dục đồng tính và dị tính không phải mang hai giới tính. Vô tính được xem là thiên hướng tính dục thứ tư, là những người không bị hấp dẫn bởi bất cứ giới nào (ađẹpual- vô tính), đây là thiên hướng tính dục chưa được nghiên cứu nhiều lắm. Như vậy, đồng tính và song tính là hai trong số bốn thiên hướng tính dục của loài người, không liên quan đến vấn đề giới tính ở đây. Một người mang giới tính nam hoàn toàn có thể là người đồng tính, song tính hay dị tính. Trên thực tế không phải lúc nào thiên hướng tính dục cũng được biểu lộ rõ ràng để mọi người nhận thấy mà nhiều khi nó được dấu kín, đặc biệt là đối với các thiên hướng tính dục chiếm số ít như đồng tính và song tính. Xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như: thiên hướng tính dục đó chiếm số ít trong xã hội, dễ bị kỳ thị, xa lánh nên những người mang thiên hướng tính dục đồng tính, song tính thường không muốn công khai thiên hướng tính dục của mình. Theo kết quả điều tra của Viện nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường (iSEE) năm 2009 với người đồng tính nam, chỉ có 2,5% số người được hỏi là công khai hoàn toàn về thiên hướng tính dục của mình và 5% thì gần như là công khai. Trong khi đó có 32,5% đang hoàn toàn bí mật về thiên hướng tính dục của mình và 35% thì gần như là hoàn toàn bí mật. Số 25% còn lại thì lúc bí mật, lúc công khai tùy thuộc vào môi trường, hoàn cảnh. Sự hình thành và phát triển của thiên hướng tính dục ở mỗi người khác nhau là khác nhau, nó phát triển như thế nào ở mỗi người cũng chưa được bản 14. 8 thân họ hiểu rõ, rất nhiều người đến khi trưởng thành mới nhận dạng được đầy đủ thiên hướng tính dục của mình. Dù các nhà khoa học vẫn chưa có kết luận cuối cùng về quá trình hình thành và phát triển của các thiên hướng tính dục ở mỗi người, tuy nhiên họ đã thống nhất và đưa ra quan điểm rằng ở nhiều người thiên hướng tính dục được hình thành từ rất sớm do tác động qua lại phức tạp của các yếu tố sinh học (yếu tố chính và cơ bản), tâm lý và môi trường sống. Trong đó yếu tố tâm lý và môi trường sống chỉ là yếu tố phụ, góp phần thể hiện rõ ràng hơn thiên hướng tính dục, còn yếu tố sinh học vẫn là yếu tố cơ bản quyết định thiên hướng tính dục ở mỗi người. Như vậy, nguyên nhân làm cho một người yêu một người cùng giới tính cũng chính là nguyên nhân làm cho một người yêu người khác giới tính, nghĩa là đồng tính, song tính hay dị tính đều là thiên hướng tính dục tự nhiên, bình thường của con người. Có nhiều trường hợp đã cố gắng thay đổi thiên hướng tính dục từ đồng tính sang dị tính trong nhiều năm nhưng không thành công. Điều đó có thể thấy thiên hướng tính dục không được coi là sự lựa chọn có ý thức mà người ta có thể tùy ý thay đổi được mà đó là bản chất tự nhiên, vốn có của mỗi con người từ khi sinh ra. 1.1.1. Đồng tính và nhận thức của xã hội về người đồng tính Hiện nay có rất nhiều cuộc tranh luận xung quanh vấn đề nguồn gốc của hiện tượng đồng tính, một số người cho rằng đó là chuyện bình thường, một số khác lại cho rằng đó là một loại bệnh hay một dạng tệ nạn xã hội. Trên thực tế vẫn còn tồn tại khá nhiều các quan niệm cho đó là bệnh và dẫn đến việc xa lánh, kỳ thị đối với những người đồng tính. Các nghiên cứu khoa học đã chứng minh đồng tính không phải là một loại bệnh mà là thiên hướng tính dục tự nhiên của con người. Dưới góc độ sinh học thì những nghiên cứu về di truyền học khẳng định rằng nguyên nhân của đồng tính bắt nguồn từ những xung đột về gen. Giáo sư John Micheal 15. 9 Bailey thuộc Đại học Norhwesterm, Chicago vào thập niên 1990, khảo sát 110 cặp song sinh đồng trứng và đồng phái đã được tách rời từ sơ sinh, nuôi riêng biệt trong những môi trường khác nhau. Kết quả tìm ra là nếu trong những cặp song sinh này có một người đồng tính thì khả năng những người kia cũng đồng tính là 52%. So với các cặp song sinh khác trứng, khả năng này giảm xuống còn 22%. Đối với anh, chị, em đồng phái không song sinh khả năng này giảm xuống còn 11%. Điều này nói lên ý nghĩa quan trọng của yếu tố di truyền trong việc hình thành tính dục của cá nhân. Bác sĩ Simom Le Vay, khoa thần kinh, Viện Salk (1991) đã công bố nghiên cứu giải phẫu một phần não vùng dưới đầu của 41 tử thi. Đây là những người đã tử vong do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong số họ, có 16 người đồng tính. Bác sĩ đã phát hiện ra rằng ở những người đồng tính, thành phần INAH3 (cấu trúc nhỏ được biết đến như một yếu tố điều khiển thái độ tính dục ở động vật có vú) nhỏ hơn hai lần so với những người khác. Bên cạnh đó còn những nghiên cứu khác nhau như nghiên cứu giải phẫu, nghiên cứu gen, nghiên cứu nội tiết, các nhà khoa học đều khẳng định rằng một người có quan hệ tính dục đồng giới hay khác giới (hoặc có thể là cả hai thái độ trên) đều là từ khi cha sinh mẹ đẻ chứ không liên quan đến chuyện giáo dục hay môi trường sống. Dưới góc độ tâm lý học, trong một công trình khảo cứu được tiến hành vào năm 1954, nhà tâm lý học người Mỹ Evelyn Hooker đã chọn mẫu khảo cứu gồm 30 người đồng tính nam trong cộng đồng (không phải là khách hàng của bà) và 30 người dị tính nam trong các tổ chức cộng đồng. Sau khi áp dụng đồng nhất ba trắc nghiệm (Rorschach, Thematic Apperception Test và Make- A- Picture Story Test) cho tất cả mọi người trong hai nhóm, để khảo sát tâm lý, đo lường khả năng hội nhập, khả năng trí tuệ… bà nhập chung họ lại và phân nhóm theo tuổi tác, chỉ số thông minh và trình độ giáo dục. 16. 10 Không được cho biết về tính dục của các đối tượng, hai chuyên gia Rorschach độc lập là Bruno Klopfer và Edwin Scheneidman phân tích kết quả khảo cứu đã không phân biệt được người nào là đồng tính người nào là dị tính. Một chuyên gia thứ ba là Mortimer Mayer duyệt xét khả năng hội nhập về tâm lý của các đối tượng cũng không thấy được sự khác biệt đáng kể nào giữa hai nhóm đồng tính và dị tính. Evelyn Hooker kết luận đồng tính không phải là một trạng thái lâm sàng và không liên quan gì đến khoa tâm lý bệnh học. Dựa trên kiến nghị của Evelyn Hooker và những kết quả nghiên cứu khoa học khác, Hiệp hội tâm thần học Hoa Kỳ (American Psychological Association- APA), từ năm 1973 đã loại đồng tính ra khỏi danh sách các triệu chứng và bệnh rối loạn tâm thần <4>. Hiệp hội tâm lý học Mỹ đưa ra quan điểm đồng tính là một hiện tượng sinh học tự nhiên, chịu sự tác động qua lại phức tạp của các yếu tố di truyền và yếu tố môi trường tử cung trong giai đoạn đầu ở thai nhi. Các hành vi tình dục đồng giới, quan hệ yêu đương đồng giới là một trong các dạng thức gắn bó bình thường để đáp ứng các nhu cầu cơ bản của con người về tình yêu, sự gần gũi và quan tâm. Tháng 12 năm 1992, APA đã đưa ra tuyên bố chính thức và lời kêu gọi thế giới cùng hành động để bảo vệ quyền lợi của người đồng tính: Xét thấy luyến ái đồng giới tự thân nó không hề hàm chứa việc có hay không sự thiệt hại, tính ổn định, sự tin cậy, trong năng lực xã hội chung hay khả năng tác nghiệp (ở người đồng tính luyến ái), Hiệp hội Tâm thần học Mỹ kêu gọi các tổ chức y tế trên thế giới và cá nhân các nhà tâm thần học ở các quốc gia hãy thúc đẩy trên đất nước mình việc bãi bỏ những trừng phạt pháp lý đối với tình cảm và tình dục đồng giới có sự đồng thuận giữa những người trưởng thành. Ngoài ra, APA cũng kêu gọi các tổ chức và cá nhân 17. 11 này hãy thực hiện mọi việc có thể để giảm đi những sỉ nhục có liên quan đến luyến ái đồng giới, ở bất cứ đâu và bất cứ khi nào. Kết quả nghiên cứu, thống kê và khảo sát của các nhà nghiên cứu tâm thần học, nhi khoa khác đều đi đến kết luận đồng tính không phải là sự rối loạn tâm thần mà là một hiện tượng bình thường trong tự nhiên, những người có thiên hướng tính dục trên hoàn toàn không phải do sự lựa chọn chủ quan của họ. Ngày 17/05/1990, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã xóa bỏ đồng tính ra khỏi danh sách các bệnh tâm thần <24>. Hiện nay, vấn đề đồng tính đang được nhiều người quan tâm, đặc biệt là khi các đám cưới đồng tính được tổ chức nhiều hơn và được nhiều người biết đến hơn, từ đó dẫn đến một hiện tượng tâm lý trong giới trẻ (đặc biệt là lứa tuổi chưa thành niên) không hiểu rõ về đồng tính, chưa định hình rõ thiên hướng tính dục của bản thân mà cho rằng mình là đồng tính hoặc muốn sống thử như một người đồng tính, hiện tượng này được gọi là đồng tính giả. Nghĩa là họ không mang trong mình thiên hướng tính dục đồng tính và theo thời gian, theo tự nhiên hoặc khi được hiểu rõ về thiên hướng tính dục họ sẽ sống đúng với thiên hướng tính dục của mình. Điều đó có nghĩa rằng đồng tính không có nghĩa cứ muốn là được, nó khác với các hiện tượng, trào lưu đồng tính giả. Từ những phân tích trên có thể thấy rằng đồng tính là một thiên hướng tính dục hoàn toàn tự nhiên, không phải là giới tính thứ ba, người đồng tính vẫn là nam giới hoặc nữ giới. Đồng tính không phải là một sự lựa chọn có ý thức như những hiện tượng, trào lưu đồng tính giả. Người đồng tính là đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội (bị đẩy vào thế bất bình đẳng vì những kỳ thị của xã hội) nên họ rất cần được quan tâm, chia sẻ và bảo vệ quyền lợi. 1.1.2. Song tính và nhận thức của xã hội Thiên hướng tính dục song tính như đã phân tích ở trên là những người 18. 12 bị hấp dẫn tình cảm và tình dục bởi cả hai giới tính nam và nữ, tuy nhiên biểu hiện của thiên hướng tính dục này ở mỗi người khác nhau lại rất khác nhau. Ví dụ một người song tính, bị hấp dẫn bởi cả nam lẫn nữ nhưng họ có thể xem mình chủ yếu là đồng tính hoặc dị tính. Nhiều trường hợp, một người có thể bị hấp dẫn với cả nam và nữ, nhưng chỉ có quan hệ tình dục với một giới hoặc không hề có quan hệ tình dục. Sự hấp dẫn không thể cân đo đong đếm được, một người song tính cũng không thể cân đo, đong đếm được cảm xúc của mình. Cảm xúc đối với hai giới không nhất thiết bằng nhau hoặc có cùng một thời điểm mà có thể thay đổi. Điều này còn phụ thuộc vào những người mà họ tiếp xúc bởi cảm xúc luôn là điều phức tạp và không thể đoán trước được. Thực tế hiện nay một số nhân vật nổi tiếng công khai có cảm xúc với cả hai giới nhưng không nhất thiết họ nhận mình là người song tính như: Billie Joe Armstrong; Angeline Joelie, Lady Gaga… Trong xã hội hiện nay còn tồn tại nhiều quan điểm về người song tính, các quan điểm này thường xoay quanh vấn đề cho rằng song tính là một dạng hành vi lệch chuẩn, một giai đoạn nhất thời, lưỡng lự, không dứt khoát, băn khoăn, lăng nhăng, tò mò…. Đặc biệt là trong cộng đồng người LGBT cũng vẫn tồn tại những quan điểm như vậy, họ thường cho rằng song tính là không tồn tại mà đó chỉ là những người không dứt khoát, băn khoăn về thiên hướng tính dục của mình và cuối cùng sẽ trở về với thiên hướng tính dục dị tính hoặc cho rằng đó là những người lăng nhăng. Từ đó dễ hiểu rằng ngày càng ít người song tính công khai thiên hướng tính dục của mình. Nếu đồng tính hay dị tính không phải là lựa chọn thì cũng tương tự song tính cũng thế. Vì vậy, cần khẳng định song tính là một thiên hướng tính dục hoàn toàn tự nhiên và thể hiện sự đa dạng tính dục của loài người. 19. 13 1.2. Người chuyển giới Khác với các khái niệm về đồng tính, song tính hay dị tính việc hiểu về người chuyển giới phải đề cập đến khái niệm bản dạng giới và thể hiện giới. Chuyển giới (tiếng Anh là “transgender”) là một khái niệm rộng, dùng để chỉ tất cả những người có bản dạng giới, thể hiện giới không giống với những chuẩn mực tương ứng với giới tính sinh học của họ. Thể hiện giới là cách một người cho thấy bản dạng giới của mình thông qua các hành vi, quần áo, kiểu tóc, giọng nói hay các đặc điểm trên cơ thể người đó. Bản dạng giới là cảm nhận bên trong của một người về việc họ là nam hay nữ (có thể giống hoặc khác với giới tính sinh học khi được sinh ra). Có thể hiểu khái quát một người sinh ra và tự nhận mình mang giới tính giống giới tính sinh học khi được sinh ra, có tình cảm, cảm xúc với người cùng giới tính với mình thì người đó là người đồng tính. Nếu người này có tình cảm với người khác giới tính với mình thì người đó là dị tính. Trường hợp có cảm tình với cả hai giới thì người đó là song tính. Nếu người đó tự nhận mình mang giới tính khác với giới tính sinh học khi được sinh ra thì đó là người chuyển giới. Chuyển giới là một thuật ngữ có tính khái quát tốt, tuy vậy không phải người nào có ngoại diện hay hành vi không theo chuẩn mực về giới cũng sẽ nhận mình là người chuyển giới. Một điều quan trọng nữa là không nhất thiết phải trải qua phẫu thuật chuyển giới thì mới được xem là người chuyển giới. Người chuyển đổi giới tính là những người có bản dạng giới khác với giới tính sinh học của họ. Thường những người chuyển giới sẽ thay đổi hay muốn thay đổi cơ thể của mình bằng cách dùng liệu pháp về hooc-môn, đi phẫu thuật hay dùng các phương pháp khác để có thể có cơ thể giống nhất với giới tính mà họ muốn. Quá trình chuyển đổi thông qua các can thiệp về y học như vậy thường được gọi là quá trình chuyển đổi giới tính. 20. 14 Có hai dạng người chuyển giới là: Người chuyển giới từ nữ sang nam là những người sinh ra là nữ nhưng có cảm nhận mình là nam và sống như một người nam, đồng thời muốn hoặc có thay đổi cơ thể của mình để giống nhất với bên nam. Ngược lại người chuyển giới từ nam sang nữ là những người sinh ra làm nam nhưng có cảm nhận mình là nữ và sống như một người nữ, đồng thời muốn hoặc có thay đổi cơ thể của mình để giống nhất với bên nữ. Dưới góc độ thiên hướng tính dục có thể phân thành người chuyển giới đồng tính (ví dụ là người chuyển giới từ nam sang nữ và chỉ yêu nữ); người chuyển giới song tính (ví dụ người chuyển giới từ nam sang nữ và có thể yêu cả nam giới và nữ giới) và người chuyển giới dị tính (ví dụ người chuyển giới từ nữ sang nam và chỉ yêu nữ giới). Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy tỷ lệ người chuyển giới chiếm từ 0.1% đến 0.5% dân số. Một điều tra về giám sát một số hành vi thiểu số trong xã hội ở Massachusetts (Mỹ) cho thấy có khoản 0.5% người trong độ tuổi từ 18-64 tự nhận mình là người chuyển giới. Gần đây trong các cuộc điều tra dân số tại Mỹ và trên thế giới đã có câu hỏi nhằm xác định bản dạng giới và thiên hướng tính dục. Số liệu ước tính mới nhất cho thấy có khoảng 0.3% dân số Mỹ là người chuyển giới. Việc thu thập số liệu về tỷ lệ người chuyển giới gặp nhiều khó khăn do sự kỳ thị xã hội khiến người chuyển giới không thể hiện hoặc công khai giới tính mong muốn của mình. Số liệu tại nhiều nước châu Âu ghi nhận tỷ lệ người chuyển giới từ nam sang nữ cao gấp từ 2.5 đến 6 lần tỷ lệ người chuyển giới từ nữ sang nam. Điều này có nguyên nhân là do người chuyển giới từ nữ sang nam ít tìm đến các cơ sở phẫu thuật chuyển đổi giới tính hơn. Các yếu tố văn hóa, xã hội, quan niệm về vai trò giới và tình dục cũng như chi phí tiến hành phẫu thuật chuyển đổi giới tính khiến những số liệu tại các cơ sở y tế không phản ánh đúng thực tế <23>. Chưa có một lý do duy nhất nào có thể giải thích đầy đủ tại sao có 21. 15 những người là người chuyển giới. Các chuyên gia, nhà nghiên cứu cho rằng có nhiều yếu tố góp phần vào quá trình hình thành và phát triển các hình thức chuyển giới như yếu tố sinh học như gien, nội tiết tố trước khi sinh, những trải nghiệm trong cuộc sống của mỗi người… Do vậy, nên có những góc nhìn khác về người chuyển giới, không nên kỳ thị, xa lánh họ, có các biện pháp nhằm đảm bảo quyền lợi của người chuyển giới. Trong xã hội hiện tại, không phải ai cũng nhận thức được một cách đầy đủ và đúng đắn về người chuyển giới, vì vậy vẫn còn tồn tại những nhận thức sai lầm về người chuyển giới, ví dụ như: – Người chuyển giới là những người có giới tính sinh học khác biệt so với những người dị tính bình thường khác. Đây hoàn toàn là quan điểm sai lầm. Thực chất người chuyển giới được sinh ra với một giới tính sinh học bình thường, hoàn chỉnh (phân biệt rõ là nam hay là nữ) nhưng lại có cảm nhận và mong muốn giới tính của mình không trùng với giới tính sinh học đang có. Bên cạnh đó, người chuyển giới cũng cần được phân biệt với các trường hợp cần được phẫu thuật xác định lại giới tính. Những người cần được phẫu thuật xác định giới tính thường được gọi là người liên giới tính hoặc là người có khuyết tật về giới tính (ví dụ người vừa có dấu hiệu của cơ quan sinh dục của nam nhưng cũng có dấu hiệu của nữ giới như có buồng trứng, dạ con hay ngực giống nữ giới/ cơ quan sinh dục không rõ là nam hay nữ…). Như vậy, về bản chất giới tính của những đối tượng này chưa rõ ràng cần được phẫu thuật để xác định. Việc xác định lại này cần phải thông qua việc xét nghiệm nhiễm sắc thể giới tính tại các cơ quan y tế để xác định rõ giới tính. Điều này hoàn toàn khác với người chuyển giới. – Phải phẫu thuật chuyển giới thì mới được xem là người chuyển giới. Quan điểm này là không đúng vì người chuyển giới được xác định qua bản dạng giới và thể hiện giới. Chỉ cẩn một người mong muốn, ý thức mình phải 22. 16 mang giới tính ngược lại so với giới tính sinh học của họ thì đã được xem là người chuyển giới. Tuy nhiên, nếu như pháp luật cho phép phẫu thuật chuyển đổi giới tính (đúng với mong muốn) thì họ phải thực hiện việc phẫu thuật mới được làm lại giấy tờ tùy thân như chứng minh nhân dân, đăng ký lại hộ tịch… Lúc này họ được gọi với khái niệm đầy đủ hơn là “người chuyển đổi giới tính”(transđẹpual). Có thể nhận thấy người chuyển giới và chuyển đổi giới tính tồn tại ở mọi xã hội, mọi nơi trên thế giới nhưng những khái niệm này vẫn được hiểu một cách khá nhầm lẫn và gây lúng túng ngay cả với những người trong cuộc khi không thể xác định bản dạng giới của mình. – Những trường hợp như nam giới thường hay giả/ cải trang làm nữ giới hoặc ngược lại là người đồng tính. Quan điểm này cũng chưa chính xác: Trừ một số trường hợp cải trang thành người giới tính khác để thỏa mãn nhu cầu giải trí thì đa số những người này đều là người chuyển giới. Như đã nêu ở trên, vì họ mong muốn thành người có giới tính ngược lại nên họ đã cải trang như vậy (họ không tiến hành phẫu thuật chuyển đổi giới tính vì pháp luật không cho phép hoặc vì không có điều kiện kinh tế). 1.3. Người liên giới tính Hiện nay vẫn còn nhiều người hiểu đồng nhất người liên giới tính với đồng tính hay người chuyển giới. Tuy nhiên, trong cộng đồng người LGBT, ngoài người đồng tính, song tính, chuyển giới thì còn có người liên giới tính. Chúng ta đã từng nghe đến các trường hợp những người cả đời sống như một người đàn ông rồi sau khi kết hôn mãi không có con, đi khám mới phát hiện có tử cung. Hay trường hợp của các cô gái đến khi trưởng thành mới biết mình là con trai và ngược lại…. Khoa học gọi đây là những trường hợp liên giới tính (interđẹp). Theo định nghĩa từ Hiệp hội liên giới tính Bắc Mỹ, liên giới tính là những người "sinh ra với cấu trúc sinh dục không giống với những định nghĩa thông thường về nam hay nữ". Tất nhiên, không nên hiểu nhầm 23. 17 rằng người liên giới tính có cả bộ phận sinh dục của 2 phái hay có bộ phận sinh dục không rõ ràng. Giới tính được xác định không chỉ bởi các đặc điểm bên ngoài mà còn do các cơ quan sinh sản bên trong như tử cung (nữ giới), túi tinh (nam giới), cặp gen giới tính (XX hay XY) và nội tiết tố sinh dục (nam hay nữ). Vì thế, một người với cơ quan sinh dục bình thường (âm đạo hoặc dương vật) vẫn có khả năng là người liên giới tính. Một số trạng thái liên giới tính như: – Các bộ phận sinh dục bên ngoài không phân loại được dễ dàng là của nam hay nữ. – Các cơ quan sinh sản bên trong phát triển không hoàn chỉnh hay bất thường. – Có sự không nhất quán giữa các bộ phận sinh dục bên ngoài và các cơ quan sinh sản bên trong. – Có các đặc điểm bất thường về nhiễm sắc thể giới tính. – Tinh hoàn hoặc buồng trứng phát triển không bình thường. – Việc sản xuất hormone giới tính trên hoặc dưới mức thông thường. – Cơ thể không có khả năng phản ứng bình thường với các hormone giới tính. Như vậy người liên giới tính không nhất thiết phải là người có hai bộ phận sinh dục khác nhau hay bộ phận sinh dục không rõ ràng vì đặc điểm giới tính còn được thể hiện ở cả những yếu tố bên trong như tinh hoàn, tử cung, tuyến nội tiết, nhiễm sắc thể, hormone. Một người sinh ra với cơ quan sinh dục bên ngoài (dương vật, âm hộ) hoàn toàn bình thường vẫn có thể là người liên giới tính. Ở Việt Nam hiện nay có đề cập đến người liên giới tính trong trường hợp “người có khuyết tật bẩm sinh về giới tính hoặc giới tính chưa được định hình chính xác”. Khái niệm này chưa thật sự đầy đủ và chính xác 24. 18 về người liên giới tính. Trên thực tế hiện nay việc áp dụng khái niệm này đa số thiên về những biểu hiện bên ngoài của các cơ quan sinh dục của mỗi người mà chưa quan tâm nhiều đến các yếu tố bên trong về đặc điểm giới. Trạng thái liên giới tính là sự trộn lẫn giữa những cái chưa hoàn thiện hoặc những bộ phận bên trong và những biểu hiện bên ngoài là chưa trùng khớp với nhau hay một đặc điểm giới tính nào đó không điển hình. Nhìn chung người liên giới tính không bị bệnh hay đau đơn, tuy nhiên cũng có những trường hợp gắn liền với các vấn đề sức khỏe cần được chữa trị. Vì vậy, người liên giới tính cần được chuẩn đoán và phẫu thuật để xác định giới tính là nam hay nữ, để đảm bảo về mặt sức khỏe cũng như các quyền cá nhân của họ. Tuy nhiên, việc phẫu thuật nên tiến hành đối với những người đã nhận thức được bản dạng giới của mình, nghĩa là việc phẫu thuật về giới tính nam hay nữ nên theo ý chí, mong muốn của người được phẫu thuật. Vì vậy không nên tiến hành phẫu thuật đối với những đứa trẻ chưa nhận thức được bản thân mình, tránh tình trạng sau này người đó phải sống với giới tính mà mình không mong muốn. 1.4. Những vấn đề cần giải quyết cho cộng đồng người LGBT 1.4.1. Những vấn đề của người đồng tính – Vấn đề thay đổi thiên hướng tính dục đồng tính: Xuất phát từ những hiểu lầm về người đồng tính cho rằng thiên hướng tính dục có thể thay đổi bằng các liệu pháp y học, dược học. Hoặc cho rằng nguyên nhân của đồng tính là do tác động về mặt tâm lý, tinh thần nên đã tìm mọi cách từ thuyết phục đến ép buộc người đồng tính kết hôn với người khác giới để cải thiện tình trạng trên. Như đã phân tích ở trên người đồng tính là người hoàn toàn bình thường về mặt tâm lý, sinh lý. Họ vẫn cho rằng mình có giới tính hoàn toàn giống với giới tính sinh học khi được sinh ra nhưng lại chịu sự hấp dẫn, kích thích về mặt tình cảm, tính dục với những người cùng giới tính (đây là 25. 19 điểm khác biệt cơ bản giữa người đồng tính với người dị tính). Hiệp hội tâm lý học Mỹ và Tổ chức y tế thế giới đã khẳng định đồng tính không phải là một bệnh nên không cần phải áp dụng bất kỳ một sự chữa trị nào. Vì vậy, việc áp dụng các biện pháp chữa trị (ép buộc hay yêu cầu người đồng tính kết hôn với một người khác giới tính) chỉ làm ảnh hưởng đến cuộc sống, gây ức chế tâm lý, ảnh hưởng đến sức khỏe của người đồng tính. Tóm lại, đồng tính chỉ là một trong bốn thiên hướng tính dục cơ bản giống như những người song tính hay dị tính, nó tồn tại ổn định và bền vững ở mỗi cá nhân và là điều không thể thay đổi bằng bất kỳ một biện pháp nào. – Hội chứng sợ đồng tính: Hội chứng này bao gồm cả chứng tự ghê sợ ở những người đồng tính và ghê sợ đồng tính ở cộng đồng. Tự sợ đồng tính là một thái độ tiêu cực ở chính bản thân người đồng tính, nghĩa là họ tự cảm thấy sợ hãi thiên hướng tính dục của mình khi phát hiện mình là người đồng tính. Ghê sợ đồng tính của cộng đồng là những phản ứng gay gắt của xã hội đối với người đồng tính thông qua các hành vi xa lánh, kỳ thị, phân biệt đối xử, sợ hãi những người đồng tính. Hiện tượng này xuất phát từ những nguyên nhân như định kiến xã hội, truyền thống đạo đức, tình cảm, niềm tin tôn giáo và sự thiếu hiểu biết về người đồng tính dẫn đến việc cho rằng đồng tính là bệnh hoạn, là tâm thần, là xu hướng phát triển lệch lạc mà sợ hãi họ. Hiện nay, trên thế giới còn xuất hiện nhiều hiện tượng phân biệt đối xử, kỳ thị người đồng tính. Một số quốc gia còn coi đồng tính là tội phạm và áp dụng biện pháp tử hình đối với người đồng tính. Ở Việt Nam, trong một nghiên cứu năm 2009 của iSEE về người đồng tính nam, 90% người đồng tính nam tham gia cảm thấy xã hội có thái độ tiêu cực với người đồng tính, từ đó có đến 86% trong số họ phải che giấu chuyện tính dục của mình với mọi người xung quanh. Hầu hết họ gặp phải sự định kiến và kỳ thị của gia đình và bạn bè. Trong 1.800 người tham gia trả lời, vì việc họ đồng tính mà 20% số 26. 20 người đó nói họ đã mất bạn, 15% bị gia đình rầy la, 6.5% mất việc, 4.5% bị đánh và 4.1% bị đuổi ra khái nhà <38, tr.14>. Ngoài ra, các nghiên cứu của các tổ chức iSEE, CCIHP (Trung tâm Sáng kiến Sức khỏe và Dân số), CSAGA (Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Khoa học về Giới – Gia đình – Phụ nữ và Vị thành niên) cũng chỉ ra những hình thức bạo lực đối với người LGBT không dựa trên cơ sở thiên hướng tính dục và bản dạng giới phổ biến nhất là: bạo lực thể xác, bạo lực tâm lý, bạo lực tình dục, và các hình thức ép người đồng tính, song tính đi chữa bệnh tâm thần. Hội chứng sợ đồng tính đã dẫn đến những hậu quả tiêu cực, đe dọa đời sống tình thần và sức khỏe của người đồng tính khiến cho họ không dám công khai thiên hướng tính dục của mình và quá trình gia nhập xã hội của họ càng thêm khó khăn. – Công khai thiên hướng tính dục của người đồng tính: Công khai thiên hướng tính dục là việc người đồng tính công khai vấn đề đồng tính của mình đối với những người xung quanh hoặc gia nhập cộng đồng người đồng tính. Tuy nhiên, việc công khai thiên hướng tính dục là một quá trình khó khăn và nhiều thử thách đối với người đồng tính. Đầu tiên họ phải vượt qua thử thách của chính bản thân họ: họ phải thừa nhận họ là người đồng tính và phải làm sao để xã hội chấp nhận họ. Đây là vấn đề hết sức khó khăn đối với người đồng tính, thường nó sẽ khiến họ thấy hoang mang, lo sợ và có thể rơi vào trạng thái tự ghê sợ đồng tính. Đối với xã hội việc người đồng tính công khai thiên hướng tính dục là họ phải chấp nhận thách thức từ những người có tâm lý ghê sợ đồng tính luyến ái trong xã hội, chấp nhận việc có thể bị bạo hành, bị kỳ thị, ngược đãi…. Bên cạnh đó người đồng tính khi công khai còn phải đối mặt với các áp lực từ gia đình, trách nhiệm, niềm kỳ vọng của gia đình họ đối với họ. Có thể nói đối với người đồng tính để được sống bình thường, được sống chân thật với bản thân mình, với cảm xúc của mình, có được 27. 21 những điều mà những người dị tính khác đương nhiên có thì người đồng tính phải trải qua rất nhiều những khó khăn thử thách. Như vậy, trên phương diện khoa học người đồng tính hoàn toàn là bình thường như những người dị tính khác nhưng trên thực tế cuộc sống của những người đồng tính đang gặp rất nhiều khó khăn mà họ đang phải đấu tranh để có được những quyền mà đương nhiên họ phải có. Cuộc sống đặt họ vào thế yếu, bị phân biệt đối xử, họ đang phải chịu những tổn thương nhất định trong việc hòa nhập với cuộc sống thật của mình. 1.4.2. Những vấn đề của người song tính Về cơ bản người song tính cũng phải đối mặt với những vấn đề mà người đồng tính đang phải đối mặt, bởi lẽ người song tính là người có hai thiên hướng tính dục đồng tính và dị tính, khi một người thể hiện thiên hướng tính dục đồng tính mạnh hơn thì họ sẽ gặp phải vấn đề của những người đồng tính. Bên cạnh đó người song tính còn phải đối mặt với những vấn đề khác đó là các quan điểm phản đối cái gọi là song tính, nghĩa là những người cho rằng không có cái gọi là song tính, đặc biệt là trong cộng đồng người LGBT vẫn tồn tại những quan điểm cho rằng người song tính chỉ là những người chưa dứt khoát hay những người lăng nhăng, không chung thủy, nửa nọ nửa kia…. Như vậy, ngoài những vấn đề chung mà người song tính và người đồng tính phải đối mặt thì người song tính còn phải đối mặt với những vấn đề riêng mà quan trọng hơn là vấn đề đó đôi khi phát sinh ngay trong cộng đồng người LGBT, từ đó càng khiến cho nhiều người không dám công khai thiên hướng tính dục song tính. 1.4.3. Những vấn đề của người chuyển giới Người chuyển giới hiện nay đang phải đối diện với sự kỳ thị từ xã hội nặng nề hơn so với người song tính và đồng tính, nguyên nhân là do người chuyển giới thường thích thể hiện giới một cách rõ ràng (ví dụ người chuyển 28. 22 giới từ nam sang nữ thường hay cải trang thành nữ, ăn mặc giống nữ giới, sử dụng son phấn…) nên mọi người nhìn thấy rõ thể hiện giới của họ, không giống như người song tính và đồng tính thường ít biểu hiện hơn hoặc chỉ thể hiện trong suy nghĩ. Mặt khác, người chuyển giới còn phải đối mặt với sự kỳ của những người đồng tính vì cho rằng họ đã làm cho xã hội hiểu nhầm về người đồng tính, bởi lẽ xã hội chưa có được nhận thức đầy đủ về người đồng tính và chuyển giới nên thường nhầm tưởng rằng người chuyển giới (những người có thể hiện giới rõ ràng, ví dụ người chuyển giới từ nam sang nữ thường xuyên cải trang thành nữ, sử dụng son phấn..) là người đồng tính và kỳ thị họ. Nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam chưa thừa nhận phẫu thuật chuyển đổi giới tính vì vậy nhiều người chuyển giới đã thực hiện phẫu thuật chuyển đổi giới tính nhưng lại chưa được pháp luật thừa nhận, các giấy tờ tùy thân không được thay đổi, gây khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm, tiếp cận các dịch vụ xã hội (đặc biệt là dịch vụ y tế), khó khăn trong việc tham gia vào các quan hệ dân sự, xã hội, khi bị xâm hại mà không được bảo vệ thích đáng (như hiếp dâm, cưỡng dâm). 1.5. Quyền con người và quyền kết hôn của người LGBT dưới góc độ quyền con người 1.5.1. Khái niệm quyền con người Về khái niệm quyền con người là phạm trù rộng, có nhiều định nghĩa khác nhau và gắn liền với các yếu tố lịch sử, văn hóa. Tuy nhiên, nội hàm của khái niệm này ở các quốc gia khác nhau không khác nhau, cốt lõi của nó vẫn là: nhân quyền là các quyền mà mỗi con người đều có đơn giản là vì họ là con người. Nhân quyền là của mọi người và bình đẳng cho mọi người. Nhân quyền cũng là những quyền bất khả xâm phạm. Các quyền này có thể bị trì hoãn – một cách chính đáng hay sai trái, ở nhiều nơi nhiều lúc – song ý tưởng 29. 23 về các quyền cố hữu không thể bị phủ nhận. Nếu mất đi những quyền này, con người sẽ không còn là con người nữa. Theo tài liệu Hỏi Đáp về Nhân quyền của Liên hợp quốc (United Nations: Human rights: Questions and Answers) thì có đến gần 50 định nghĩa về quyền con người được công bố. Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc, quyền con người là những bảo đảm pháp lý phổ quát (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người <9>. Trong thực tế ở Việt Nam, bên cạnh thuật ngữ “quyền con người”, có một thuật ngữ khác cũng được sử dụng, đó là “nhân quyền”. Cả hai thuật ngữ này đều bắt nguồn từ thuật ngữ human rights. Từ human rights trong tiếng Anh có thể được dịch là quyền con người (thuần Việt) hoặc nhân quyền (Hán- Việt). Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, “nhân quyền” chính là “quyền con người” <36, tr.1239>. Như vậy, xét về mặt ngôn ngữ học, quyền con người và nhân quyền là hai từ đồng nghĩa, do đó, hoàn toàn có thể sử dụng cả hai từ này trong nghiên cứu, giảng dạy và hoạt động thực tiễn về nhân quyền <9>. Ở Việt Nam chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào đưa ra định nghĩa về quyền con người. Tuy nhiên, nội hàm của khái niệm quyền con người đã được thể hiện trong nhiều văn bản qua các thời kỳ lịch sử. Chẳng hạn, Nghị quyết về giành chính quyền được thông qua tại Đại hội Đại biểu Quốc dân do Tổng bộ Việt Minh triệu tập khai mạc tại đình làng Tân Trào ngày 16/8/1945 đã tuyên bố: Ban bố những quyền của dân cho dân: a) Nhân quyền, b) Tài sản (quyền sở hữu), c) Dân quyền: quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ 30. 24 (tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, ngôn luận, hội họp, đi lại), dân tộc bình quyền, nam nữ bình quyền (Quốc hội Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người, sđd, tr.99). Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật” <25, Điều 50> thì Hiến pháp năm 2013 đã sửa đổi, bổ sung: Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng <28, Điều 14>. Trên phương diện nghiên cứu khoa học pháp lý, theo Giáo trình Lý luận và pháp luật về Quyền con người của Khoa Luật Đại Học Quốc gia Hà Nội, NXB. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1999, thì quyền con người là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Quy định về quyền con người có thể khác nhau qua các thời kỳ lịch sử do tác động của các yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội, nhưng khái niệm quyền con người vẫn được hiểu thống nhất với các đặc trưng cơ bản sau đây: Tính phổ biến: Thể hiện ở chỗ quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có của con người và được

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Tiểu luận