hai đứa trẻ văn mẫu

Để giúp cho các bạn học sinh có thể hiểu hơn về tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam, cũng như củng cố lại kiến thức Ngữ văn lớp 11 của mình. Sau đây lingocard.vn giới thiệu bài văn mẫu Phân tích tác phẩm Hai đứa trẻ.

Đang xem: Hai đứa trẻ văn mẫu

*

Phân tích Hai đứa trẻ bao gồm 2 dàn ý chi tiết kèm theo 18 bài văn mẫu được lingocard.vn tổng hợp từ bài làm hay nhất của học sinh trên cả nước. Qua đó giúp các bạn có thêm nhiều tư liệu tham khảo, trau dồi vốn từ biết cách làm bài văn phân tích tác phẩm. Ngoài ra các bạn tham khảo thêm nhiều bài văn hay khác tại chuyên mục Văn 11. Chúc các bạn học tốt.

Phân tích Hai đứa trẻ của Thạch Lam hay nhất

Dàn ý phân tích Hai đứa trẻ Dàn ý số 1 Dàn ý số 2 Phân tích Hai đứa trẻ – Mẫu 1 Phân tích Hai đứa trẻ – Mẫu 2 Phân tích Hai đứa trẻ – Mẫu 3 Phân tích Hai đứa trẻ – Mẫu 4 Phân tích Hai đứa trẻ – Mẫu 5 Phân tích Hai đứa trẻ – Mẫu 6 Phân tích Hai đứa trẻ – Mẫu 7 Phân tích Hai đứa trẻ – Mẫu 8 Phân tích Hai đứa trẻ – Mẫu 9 Phân tích Hai đứa trẻ – Mẫu 10 Phân tích Hai đứa trẻ – Mẫu 11 Phân tích Hai đứa trẻ – Mẫu 12 Phân tích Hai đứa trẻ – Mẫu 13 Phân tích Hai đứa trẻ – Mẫu 14 Phân tích Hai đứa trẻ – Mẫu 15 Phân tích Hai đứa trẻ – Mẫu 16 Phân tích Hai đứa trẻ – Mẫu 17 Phân tích Hai đứa trẻ – Mẫu 18

Dàn ý phân tích Hai đứa trẻ

Dàn ý số 1

I. Mở bài:

Đôi nét về Thạch Lam: Một trong những cây bút tiêu biểu của Tự lực văn đoàn, ông có thế mạnh về viết truyện ngắn. Văn chương Thạch Lam rất thích hợp để thanh lọc tâm hồn Hai đứa trẻ là một truyện ngắn trữ tình đượm buồn phù hợp cho nhận định trên

II. Thân bài:

1. Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn

a. Bức tranh thiên nhiên nơi phố huyện lúc chiều tàn:

Toàn bộ cảnh vật được cảm nhận qua cái nhìn của Liên Âm thanh: + Tiếng trống thu không gọi chiều về, tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng, tiếng muỗi vo ve. Hình ảnh, màu sắc: + “Phương tây đỏ rực như lửa cháy”, “Những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Đường nét: dãy tre làng cắt hình rõ rệt trên nền trời. Nhịp điệu chậm, giàu hình ảnh và nhạc điệu

⇒ Khung cảnh thiên nhiên đượm buồn, đồng thời thấy được sự cảm nhận tinh tế

b. Cảnh chợ tàn và những kiếp người nơi phố huyện

– Cảnh chợ tàn:

Chợ đã vãn từ lâu, người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía.

– Con người:

Mấy đứa trẻ con nhà nghèo tìm tòi, nhặt nhạnh những thứ còn sót lại ở chợ. Mẹ con chị Tí: với cái hàng nước đơn sơ, vắng khách. Bà cụ Thi: hơi điên đến mua rượu lúc đêm tối rồi đi lần vào bóng tối. Bác Siêu với gánh hàng phở – một thứ quà xa xỉ. Gia đình bác xẩm mù sống bằng lời ca tiếng đàn và lòng hảo tâm của khách qua đường.

⇒ Cảnh chợ tàn và những kiếp người tàn tạ: sự tàn lụi, sự nghèo đói, tiêu điều của phố huyện nghèo.

c. Tâm trạng của Liên

– Cảm nhận rất rõ: “mùi riêng của đất, của quê hương này”.

– Nỗi buồn thấm thía trước cảnh ngày tàn và những kiếp người tàn tạ:

Thương những đứa trẻ nhà nghèo nhưng không có tiền mà cho chúng. Xót thương mẹ con chị Tí: ngày mò cua bắt tép, tối dọn cái hàng nước chè tươi chả kiếm được bao nhiêu, xót thương bà cụ Thi điên

⇒ Tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, có lòng trắc ẩn, yêu thương con người. Đây cũng là nhân vật mà Thạch Lam gửi gắm tâm tư của mình

2. Bức tranh phố huyện lúc đêm khuya

a. Sự đối lập giữa “bóng tối” và “ánh sáng”

– Phố huyện về đêm ngập chìm trong bóng tối:

“Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”. “Tối hết con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng càng sẫm đen hơn nữa”.

⇒ Bóng tối xâm nhập, bám sát mọi sinh hoạt của những con người nơi phố huyện.

Ánh sáng của sự sống hiếm hoi, bé nhỏ: khe sánh, quầng sáng, chấm lửa nhỏ, hột sáng…⇒ ánh sáng yếu ớt, le lói như những kiếp người nghèo khổ nơi phố huyện. Ánh sáng và bóng tối tương phản nhau

⇒ Bóng tối bao trùm trong khi ánh sáng chỉ mong manh, nhỏ bé ⇒ kiếp người nhỏ bé sống leo lét, tàn lụi trong đêm tối mênh mông của xã hội cũ.

b. Đời sống của những kiếp người nghèo khổ trong bóng tối:

– Những công việc hằng ngày lặp đi lặp lại:

Chị Tí dọn hàng nước Bác Siêu hàng phở thổi lửa. Gia đình Xẩm “ngồi trên manh chiếu rách, cái thau sắt để trước mặt”, “Góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật trong im lặng”

+ Liên, An trông coi cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu.

⇒ Cuộc sống nhàm chán, quẩn quanh, đơn điệu không lối thoát.

Những suy nghĩ cũng lặp đi lặp lại hằng ngày: Mong những người phu gạo, phu xe, mấy chú lính lệ vào hàng uống bát chè tươi và hút điếu thuốc lào. Vẫn mơ ước: “chừng ấy người trong bóng tối đang mong đợi một cái gì tươi sáng cho cuộc sống nghèo khổ hàng ngày của họ” ⇒ mơ hồ, tội nghiệp

⇒ Giọng văn: chậm buồn, tha thiết thể hiện niềm cảm thương của Thạch Lam với những người nghèo khổ.

3. Hình ảnh chuyến tàu và tâm trạng chờ mong chuyến tàu đêm của Liên và An

– Liên và An thức bởi:

Để bán hàng Để được nhìn chuyến tàu đêm đi qua hoạt động cuối cùng của đêm khuya.

– Hình ảnh đoàn tàu xuất hiện với dấu hiệu đầu tiên:

Liên cũng trông thấy “ngọn lửa xanh biếc” Hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi.

– Khi tàu đến:

Các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng.

– Khi tàu đi vào đêm tối:

Để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre.

⇒ Đoàn tàu xuất hiện với âm thanh sôi động và ánh sáng rực rỡ, mang đến phố huyện nghèo một thế giới khác, đó là thế giới mà Liên luôn mong ước

III. Kết bài:

Khái quát những nét đặc sắc về nghệ thuật làm nên thành công của truyện ngắn Hai đứa trẻ là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương của Thạch Lam: kết hợp hai yếu tố hiện thực và lãng mạn, văn phong trong sáng, giản dị mà thâm trầm.

Dàn ý số 2

1, Mở bài

Giới thiệu khái quát về tác giả Thạch Lam và những đặc điểm nổi bật trong sự nghiệp sáng tác của ông. Giới thiệu khái quát về truyện ngắn Hai đứa trẻ (hoàn cảnh ra đời, xuất xứ, khái quát về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm,…)

2, Thân bài

A. Bức tranh chiều tàn nơi phố huyện nghèo và tâm trạng của Liên

Bức tranh thiên nhiên:

+ Âm thanh: “tiếng trống thu không<1> trên cái chợ của huyện nhỏ; từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều”, “một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”,“muỗi đã bắt đầu vo ve”. + Hình ảnh, màu sắc: “phương tây đỏ rực như lửa cháy”, “những áng mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”,“dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rơ rệt trên nền trời”.

=> Bức tranh thiên nhiên chiều tàn nơi phố huyện vừa thơ mộng, trữ tình, giàu chất thơ vừa thoang thoảng đâu đó nét đượm buồn ,vắng lặng.

Hình ảnh phiên chợ tàn: gợi lên trong người đọc hình ảnh một phố huyện nghèo nàn, xơ xác và thật tàn tạ Hình ảnh con người: hình ảnh những đứa trẻ nhà quanh chợ “cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi”, là mẹ con chị Tí với gánh hàng nước vắng khách, là gia đình bác Siêu với gánh phở, là gia đình bác Xẩm với chiếu hát, là chị em Liên với quán hàng xén, là bà cụ Thi điên,… Tâm trạng của Liên: “Liên thấy động lòng thương cảm”

B. Bức tranh cảnh vật và cuộc sống của những con người nơi phố huyện lúc đêm khuya

– Bút pháp tương phản đối lập giữa ánh sáng và bóng tối được sử dụng thành công:

+ Ánh sáng: leo lét, ánh sáng toát lên mà không biết sẽ vụt tắt lúc nào, nó chỉ là những khe sánh, quầng sáng, chấm lửa nhỏ, hột sáng… + Bóng tối: đen đặc, bao phủ khắp mọi nẻo đường nơi phố huyện “Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”, “Tối hết con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng càng sẫm đen hơn nữa”.

=> Bóng tối ấy đã bủa vây lấy cuộc sống của những con người nơi đây

– Hình ảnh những con người nơi phố huyện: buồn tẻ, đơn điệu, tẻ nhạt, lặp đi lặp lại hằng ngày một công việc, một suy nghĩ, một ước ao

C. Cảnh đợi tàu và tâm trạng của chị em Liên khi chuyến tàu đêm đi qua

Cảnh tượng đặc biệt và có ý nghĩa sâu sắc trong tác phẩm Chờ chuyến tàu đêm đi qua mỗi đêm đã trở thành một phần quan trọng, không thể thiếu trong cuộc sống của những con người nơi đây. Họ chờ chuyến tàu ấy đi qua mỗi đêm cũng đúng thôi, bởi với họ, chuyến tàu ấy “mang đến một thế giới khác” Với chị em Liên, chuyến tàu ấy còn gợi về trong họ bao kỉ niệm đẹp đẽ, ấm áp của tuổi thơ. Qua cảnh đợi tàu cho chúng ta thấy tấm lòng nhân đạo, trắc ẩn và giàu yêu thương của nhà văn Thạch Lam.

3, Kết bài

Khái quát giá trị nội dung (giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo) và giá trị nghệ thuật của truyện ngắn Hai đứa trẻ Cảm nhận của bản thân về tác phẩm và các nhân vật trong tác phẩm cùng cách kể chuyện của nhà văn.

Phân tích Hai đứa trẻ – Mẫu 1

Nội dung bao trùm của truyện Hai đứa trẻ là tấm lòng “êm mát và sâu kín” của Thạch Lam đối với con người và quê hương, ở đây, nhà văn vừa thể hiện niềm xót thương đối với những kiếp người nghèo khổ sống lam lũ, quẩn quanh trong xã hội cũ vừa bộc lộ thái độ đồng cảnh, trân trọng đối với khát vọng tuy rất mơ hồ của họ. Qua truyện Hai đứa trẻ, người đọc còn cảm nhận được phần nào tình cảm gắn bó với quê hương đất nước của Thạch Lam.

Đọc truyện Hai đứa trẻ, trước hết chúng ta có ấn tượng về cuộc sống lụi tàn, tù túng của những kiếp người sống nghèo đói, quẩn quanh, không ánh sáng, không tương lai trong xã hội cũ.

Câu chuyện mở đầu bằng những câu văn êm dịu, với những âm thanh và hình ảnh báo hiệu một ngày tàn: “Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời.

Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ra ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”. Đây là một trong nhiều bằng chứng ở tác phẩm này cho thấy: “Văn của Thạch Lam thường hiếm khi thừa lời, thừa chữ, không uốn éo làm duyên một cách cầu kì kiểu cách, nhưng vừa giàu hình ảnh và nhạc điệu, lại vừa uyển chuyển, tinh tế (Vũ Ngọc Phan). Nó không những cho người đọc nhìn thấy cảnh vật mà điều quan trọng hơn là khơi gợi ở họ tình cảm, xúc cảm đối với cảnh vật. Hơn nữa, cảnh vật lại phần nhiều đều rất gần gũi, bình dị và mang cốt cách Việt Nam.

Bên cạnh cảnh ngày tàn, chợ tàn là những kiếp người tàn tạ. Chị Tí ban ngày mò cua, bắt tép, tối đến dọn hàng nước chè tươi, thắp một ngọn đèn dầu leo lét. Hàng vắng khách, tuy chiều nào chị cũng dọn từ chập tối cho đến đêm, nhưng “chả kiếm được bao nhiêu”. Bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau để trước mặt, “góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật trong yên lặng.

Thằng con bò ra đất, ngoài manh chiếu, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong các bên đường”. Bà cụ Thi hơi điên lại nghiện rượu, có tiếng cười khanh khách, ghê sợ, sau khi uống một hơi cạn cút rượu ti, “cụ đi lần vào bóng tối”. Chị em Liên phải thức để trông “một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê ở, vì thầy Liên mất việc”. Hàng “bán chẳng ăn thua gì”, Liên thương mấy đứa trẻ nghèo, nhưng “không có tiền để mà cho chúng nó”.

Xem thêm: Khóa Học Tư Duy Thiết Kế Kiến Trúc Nội, Ngoại Thất Với Kỹ Thuật Dựng Hình 3D

Cảnh Liên xếp hàng vào hòm, cách hai chị em tính tiền, niềm nuối tiếc cái thời còn ở Hà Nội nhiều khi “được đi chơi Bờ Hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”, cái ý nghĩ phở bác Siêu là “một thứ quà xa xỉ” không bao giờ chị em Liên có thể mua được… khiến chúng ta có thể hình dung ra gia cảnh khó khăn và mức sống eo hẹp của gia đình Liên. Thế nhưng, có lẽ dẫu sao, gia đình hai đứa trẻ cũng còn có phần khấm khá hơn gia đình chị Tí và bác Xẩm, vì còn có “một gian hàng bé thuê lọi của bà lão móm, ngăn ra bằng một tấm phên nứa dán giấy nhật trình”…

Như vậy, từ gia đình chị Tí, gia đình bác Xẩm đến bà cụ Thi và chị em Liên, mỗi người một cảnh, nhưng họ đều có chung sự buồn chán, mỏi mòn… Điều đáng nói hơn là tất cả những nhân vật bé nhỏ này đã hiện ra trong cái nhìn xót thương của Thạch Lam, được thể hiện qua lời văn và những chi tiết dường như rất khách quan.

Khi trời tối hẳn, cả phố huyện dường như chỉ thu vào ngọn đèn của chị Tí. Ngoài ngọn đèn này ra, “thứ bóng tối nhẫn nại uất ức đời thôn quê” (Thế Lữ) làm chủ tất cả. Không phải ngẫu nhiên trong tác phẩm, nhà văn nhắc đi, nhắc lại chi tiết ngọn đèn chị Tí tới 7 lần. Kết thúc truyện, hình ảnh gây ấn tượng, day dứt cuối cùng, đi vào giấc ngủ của Liên cũng vẫn là “chiếc đèn con của chị Tí chiếu sáng một vùng đất nhỏ”.

Phải chăng, hình ảnh này chính là biểu tượng của những kiếp người nghèo khổ, lam lũ sống vật vờ, leo lét trong màn đêm của xã hội thực dân nửa phong kiến? Nhịp sống ở phố huyện này cứ lặp đi, lặp lại một cách đơn điệu, quẩn quanh và tẻ nhạt.

Ngày qua ngày, chiều nào chị Tí cũng dọn hàng “từ chập tối cho đến đêm”, tối nào bác Siêu bán phở cũng nhóm lửa, gia đình bác Xẩm cũng chờ khách, người nhà cụ Thừa, cụ Lục cũng đi gọi người đánh tổ tôm. Chị em Liên tối nào cũng tính tiền hàng, “cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng” và “ngày nào, cứ chập tối, mẹ Liên lại tạo ra thăm hàng một lần”…

Như vậy, “chừng ấy người trong bóng tối” ngày này qua ngày khác sống quẩn quanh, tù túng trong cái “ao đời bằng phẳng” (Xuân Diệu). Hình ảnh những con người này khiến ta nhớ đến một số câu thơ trong bài Quẩn quanh của Huy Cận:

Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu,
Tới hay lui cũng ngần ấy mặt người.
Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười,
Môi nhắc lại cũng ngần ấy chuyện.

Hãy nhớ đến cuộc sống đơn điệu, nhạt nhẽo “cơm mai rồi lại cơm chiều, rút cục mỗi ngày hai bữa cơm” của những nhân vật như Quỳnh và Giao trong thiên truyện ý tưởng Tỏa nhị Kiều của Xuân Diệu. Tuy thế, những người dân phố huyện vẫn hy vọng cho dù hy vọng đó rất mơ hồ: “một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”.

Chính sự mong đợi mơ hồ này dường như càng tô đậm thêm tình cảnh tội nghiệp của những nhân vật trong truyện. Họ sống đấy, nhưng đâu biết ngày mai số phận mình sẽ ra sao! Một niềm xót thương da diết của Thạch Lam thể hiện kín đáo ngay trong cách dựng người: dựng cảnh và cái giọng văn đều đều, chậm buồn của ông.

Phân tích Hai đứa trẻ – Mẫu 2

Thạch Lam cây bút văn xuôi lãng mạn tiêu biểu của văn học 1930 1945, các sáng tác của ông tập trung đi sâu khai thác vào cuộc sống đời thường, bình dị. Với những tác phẩm thường “truyện không có chuyện” nhưng lại để lại những dư âm sâu sắc trong lòng người đọc về vẻ đẹp cuộc sống, tâm hồn con người. Hai đứa trẻ là một tác phẩm mang trong mình vẻ đẹp giản dị, sâu lắng như vậy.

Tác phẩm được xuất bản năm 1938 in trong tập Nắng trong vườn. Tác phẩm là lát cắt hiện thực cuộc sống nơi phố huyện nghèo từ khoảnh khắc chiều tàn cho đến đêm khuya. Nhưng với ngòi bút tinh tế, Thạch Lam đã đi sâu khám phá vẻ đẹp của con người, cuộc sống nơi đây.

Mở đầu tác phẩm là khung cảnh thiên nhiên hết sức nên thơ nhưng đượm buồn với tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng, tiếng trống thu không văng vẳng vang lên, tiếng muỗi vo ve khắp nơi. Nếu có âm thanh cất lên cũng không mang lại sự tươi vui, rộn rã, ngược lại chỉ gợi lên sự tĩnh mịch của cảnh và sự ảm đạm của không gian. Gam màu chủ đạo của khung cảnh là màu đỏ như lửa cháy: “Phương tây đỏ rực như cháy và những đám mây hồng như hòn than sắp tàn” . Những sắc màu này thường gợi lên sức sống, sự ấm nóng như với bức tranh của Thạch Lam lại chỉ gợi lên sự lụi tàn, mặt trời sắp lặn, những đám mây cũng như hòn than sắp tàn. Sự ảm đạm, buồn rầu bao trùm lên cảnh vật khi bóng chiều dần buông.

Trong không gian của buổi chiều tàn, bức tranh sinh hoạt của con người hiện lên cũng chẳng mấy sáng sủa hơn. Chỉ có một âm thanh duy nhất xuất hiện “tiếng ồn ào cũng mất” khi chợ đã họp và vãn từ lâu, trả lại cho phố huyện sự tĩnh lặng vốn có. Trên nền chợ chỉ còn lại vỏ thị, vỏ bưởi, lá nhãn,… những thứ người ta bỏ đi sau một buổi chợ phiên. Những đứa trẻ con nhà nghèo vẫn cố tìm tòi, nhặt nhạnh những thứ còn sót lại trên mặt đất. Cuộc sống ở đây không chỉ buồn mà còn nghèo nàn, xơ xác. Không gian ấy khiến ta không khỏi ám ảnh và cảm thương cho những số phận, sinh linh tội nghiệp đang phải sống những ngày mòn mỏi ở nơi đây.

Liên là một cô gái mới lớn, tinh tế và nhạy cảm, trong khoảnh khắc của ngày tàn đã nhanh chóng nắm bắt những biến chuyển của thiên nhiên. Em cảm nhận thấy mùi vị của quê hương trong phiên chợ đã tàn: “một mùi ẩm mốc bốc lên trộn lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá…” ấy là mùi vị đã thấm sâu trong tâm hồn em, tâm hồn của một người gắn bó tha thiết, sâu nặng với quê hương.

Xem thêm: Chia Sẻ Kinh Nghiệm Thực Tế Học Phí Khóa Học Celta Tại Trường Anh Ngữ Idea

Khi màn đêm buông xuống, cuộc sống nơi phố huyện vẫn tiếp diễn. Liên sửa soạn, vội vàng “thắp đèn, xếp những quả sơn đen lại” và nhẩm tính những món hàng đã bán được trong ngày. Rồi lần lượt chị Tí, bác xẩm, gánh phở bác Siêu xuất hiện. Chị Tí dọn hàng nước chờ đợi những khách hàng quá quen thuộc đi qua vào uống chén trà. Gánh phở bác Siêu lại là món ăn xa xỉ với người dân phố huyện, bởi vậy lúc nào cũng vắng khách. Bác xẩm gảy lên “mấy tiếng đàn bầu bần bật trong yên lặng” thu nhập chẳng đáng là bao. Hình ảnh cụ Thi điên có lẽ đã gây biết bao ám ảnh với người đọc, cụ triền miên trong cơn say, bước đi lảo đảo, dường như cụ tìm đến với hơi men để lãng quên thực tại cuộc sống nhàm chán, tẻ nhạt, để quên đi những nỗi đau của thực tế. Những người dân phố huyện vẫn gắng gượng sống qua ngày, họ sống cuộc đời mòn mỏi, mà chưa thể tìm ra lối thoát cho chính mình. Họ cũng mang trong mình mơ ước “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì đó tươi sáng hơn…” nhưng đó chỉ là mơ ước mơ hồ, chập chờn, vu vơ, không có đích đến. Nhưng ước mơ đổi đời của những người dân phố huyện cũng được tác giả nâng niu, trân trọng.

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Văn mẫu