nghị luận văn học đồng chí

Văn mẫu lớp 9: Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu gồm 2 dàn ý chi tiết, cùng 18 bài văn mẫu được lingocard.vn tổng hợp từ bài làm hay nhất của học sinh trên cả nước, giúp các em học sinh lớp 9 có thêm nhiều tư liệu tham khảo, củng cố kiến thức có nhiều ý tưởng mới khi viết văn.

Đang xem: Nghị luận văn học đồng chí

Thông qua 18 bài phân tích Đồng chí này, sẽ giúp các em có thêm nhiều vốn từ, đạt được kết quả cao trong các bài kiểm tra, bài thi sắp tới. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của lingocard.vn:

Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu hay nhất

Dàn ý phân tích bài thơ Đồng chí Dàn ý chi tiết số 1 Dàn ý chi tiết số 2 Phân tích bài thơ Đồng chí – Mẫu 1 Phân tích bài thơ Đồng chí – Mẫu 2 Phân tích bài thơ Đồng chí – Mẫu 3 Phân tích bài thơ Đồng chí – Mẫu 4 Phân tích bài thơ Đồng chí – Mẫu 5 Phân tích bài thơ Đồng chí – Mẫu 6 Phân tích bài thơ Đồng chí – Mẫu 7 Phân tích bài thơ Đồng chí – Mẫu 8 Phân tích bài thơ Đồng chí – Mẫu 9 Phân tích bài thơ Đồng chí – Mẫu 10 Phân tích bài thơ Đồng chí – Mẫu 11 Phân tích bài thơ Đồng chí – Mẫu 12 Phân tích bài thơ Đồng chí – Mẫu 13 Phân tích bài thơ Đồng Chí – Mẫu 14 Phân tích bài thơ Đồng Chí – Mẫu 15 Phân tích bài thơ Đồng Chí – Mẫu 16 Phân tích bài thơ Đồng Chí – Mẫu 17 Phân tích bài thơ Đồng Chí – Mẫu 18

Dàn ý phân tích bài thơ Đồng chí

Dàn ý chi tiết số 1

I. Mở bài

Giới thiệu tác phẩm: Đồng Chí, tác giả: Chính Hữu. Hoàn cảnh sáng tác: đầu năm 1948, sau khi tác giả đã cùng đồng đội tham gia chiến dịch Việt Bắc.

II. Thân bài

1. Cơ sở hình thành tình đồng chí

– Tình đồng chí bắt nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân của những người lính:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

“Anh” ra đi từ vùng “nước mặn đồng chua”, “tôi” từ miền “đất cày lên sỏi đá”. Hai miền đất xa nhau và “đôi người xa lạ” nhưng cùng giống nhau ở cái “nghèo”. Hai câu thơ giới thiệu thật giản dị hoàn cảnh xuất thân của người lính: Họ là những người nông dân nghèo.

– Tình đồng chí hình thành từ sự cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lý tưởng, sát cánh bên nhau trong hàng ngũ chiến đấu:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”

Họ vốn “chẳng hẹn quen nhau” nhưng lý tưởng chung của thời đại đã gắn kết họ lại với nhau trong hàng ngũ quân đội cách mạng. “Súng” biểu tượng cho nhiệm vụ chiến đấu, “đầu” biểu tượng cho lý tưởng, suy nghĩ. Phép điệp từ (súng, đầu, bên) tạo nên âm điệu khoẻ, chắc, nhấn mạnh sự gắn kết, cùng chung lý tưởng, cùng chung nhiệm vụ.

– Tình đồng chí nảy nở và bền chặt trong sự chan hòa và chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui:

“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”

Cái khó khăn thiếu thốn hiện lên: đêm rét, chăn không đủ đắp nên phải “chung chăn”. Nhưng chính sự chung chăn ấy, sự chia sẻ với nhau trong gian khổ ấy đã trở thành niềm vui, thắt chặt tình cảm của những người đồng đội để trở thành “đôi tri kỷ”.

=> Sáu câu thơ đầu đã giải thích cội nguồn và sự hình thành của tình đồng chí giữa những người đồng đội. Câu thơ thứ bảy như một cái bản lề khép lại đoạn thơ một để mở ra đoạn hai.

2. Những biểu hiện của tình đồng chí

– Tình đồng chí là sự cảm thông sâu sắc những tâm tư, nỗi niềm của nhau. Những người lính gắn bó với nhau, họ hiểu đến những nỗi niềm sâu xa, thầm kín của đồng đội mình:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

Người lính đi chiến đấu để lại sau lưng những gì yêu quý nhất của quê hương: ruộng nương, gian nhà, giếng nước gốc đa. Từ “mặc kệ”cho thấy tư thế ra đi dứt khoát của người lính. Nhưng sâu xa trong lòng, họ vẫn da diết nhớ quê hương. Ở ngoài mặt trận, họ vẫn hình dung thấy gian nhà không đang lung lay trong cơn gió nơi quê nhà xa xôi.

– Tình đồng chí còn là cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính :

Những gian lao, thiếu thốn trong cuộc sống của người lính những năm kháng chiến chống pháp hiện lên rất cụ thể, chân thực: áo rách, quần vá, chân không giày, sự khổ sở của những cơn sốt rét rừng hành hạ, trời buốt giá, môi miệng khô và nứt nẻ, nói cười rất khó khăn, có khi nứt ra chảy cả máu. Nhưng những người lính vẫn cười bởi họ có hơi ấm và niềm vui của tình đồng đội “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Hơi ấm ở bàn tay, ở tấm lòng đã chiến thắng cái lạnh ở “chân không giày” và thời tiết “buốt giá”. Cặp từ xưng hô “anh” và “tôi” luôn đi với nhau, có khi đứng chung trong một câu thơ, có khi đi sóng đôi trong từng cặp câu liền nhau diễn tả sự gắn bó, chia sẻ của những người đồng đội.

3. Hình ảnh biểu tượng cho tình đồng chí

– Ba câu cuối cùng kết thúc bài thơ bằng một hình ảnh thơ thật đẹp:

“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”

Nổi lên trên cảnh rừng đêm hoang vắng, lạnh lẽo là hình ảnh người lính “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Đó là hình ảnh cụ thể của tình đồng chí sát cánh bên nhau trong chiến đấu. Họ đã đứng cạnh bên nhau giữa cái giá rét của rừng đêm, giữa cái căng thẳng của những giây phút “chờ giặc tới”. Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ, giúp họ vượt lên tất cả…

– Câu thơ cuối cùng mới thật đặc sắc: “Đầu súng trăng treo”. Đó là một hình ảnh thật mà bản thân Chính Hữu đã nhận ra trong những đêm phục kích giữa rừng khuya.

– Nhưng nó còn là một hình ảnh thơ độc đáo, có sức gợi nhiều liên tưởng phong phú sâu xa.

“Súng” biểu tượng cho chiến tranh, cho hiện thực khốc liệt. “Trăng” biểu tượng cho vẻ đẹp yên bình, mơ mộng và lãng mạn. Hai hình ảnh “súng” và “trăng” kết hợp với nhau tạo nên một biểu tượng đẹp về cuộc đời người lính: chiến sĩ mà thi sĩ, thực tại mà mơ mộng. Hình ảnh ấy mang được cả đặc điểm của thơ ca kháng chiến – một nền thơ giàu chất hiện thực và giàu cảm hứng lãng mạn. Vì vậy, câu thơ này đã được Chính Hữu lấy làm nhan đề cho cả một tập thơ – tập “Đầu súng trăng treo”.

=> Đoạn kết bài thơ là một bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội của người lính.

III. Kết bài

Tóm tắt các ý đã phân tích. Liên hệ bản thân.

Dàn ý chi tiết số 2

1, Mở bài

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm

Chính Hữu là một tác giả lớn của nền thi ca cách mạng, vừa là nhà thơ, vừa là chiến sĩ tham gia chiến dịch Việt Bắc. Bài thơ được sáng tác vào năm 1948, viết về người chiến sĩ, về tình đồng đội, về khát vọng hòa bình.

2, Thân bài

a, Sự hình thành tình đồng chí

Sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân của những người lính: đều là những nông dân, những người con của vùng quê nghèo khó “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”. Từ “đôi người xa lạ”, họ cùng đi lính, chung lí tưởng chiến đấu vì Tổ quốc, “súng bên súng đầu sát bên đầu” sát cánh bên nhau trên chiến trường, chia bùi sẻ ngọt “đêm rét chung chăn” mà thành “đôi tri kỷ”. Nghệ thuật: sử dụng hình ảnh gợi tả đặc sắc, thủ pháp sóng đôi. Từ “Đồng chí”: cách gọi vừa trang nghiêm vừa thân thuộc, đầy tình cảm, mang hơi thở thời đại mới của cách mạng, kháng chiến. Giọng thơ chùng xuống, lắng đọng, tạo cảm giác thiêng liêng.

b, Những kỉ niệm, sóng gió cùng trải qua:

– Cảm thông sâu sắc những tâm tư, nỗi niềm của nhau: vì mục đích chung mà gạt đi niềm riêng tư, để lại sau lưng những gì yêu quý như “ruộng nương”, “gian nhà”, “giếng nước gốc đa” – những hình ảnh đại diện cho quê hương.

⇒ Dù tư thế ra đi dứt khoát, “mặc kệ” nhưng họ vẫn nhớ quê hương da diết.

– So sánh mở rộng với bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi:

“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.

– Cùng chia sẻ những gian lao, thiếu thốn trên chiến trường:

Bệnh sốt rét rừng: “biết từng cơn ớn lạnh”, “run người”, “trán ướt mồ hôi”. Khó khăn thiếu thốn: áo rách vai, quần vá, không giày, chịu đói rét.

– Nghệ thuật:

Liệt kê, tả thực: cụ thể hóa những vất vả trong cuộc sống của người lính những năm kháng chiến chống Pháp, làm nổi bật lên sự sẻ chia, đoàn kết “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Tiếp tục sử dụng thủ pháp sóng đôi: “anh” – “tôi” tạo sự song hành, gắn bó giữa những người đồng đội.

– Liên hệ mở rộng với tình đồng đội trong truyện “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê.

Xem thêm: Cấu Trúc Đề Cương Đồ Án Tốt Nghiệp Sinh Viên, Tìm Hiểu Về Các Bước Lập Đồ Án Tốt Nghiệp

c. Tình đồng chí và khát vọng hòa bình

Ba câu cuối kết thúc bài thơ bằng hình ảnh hai người đồng đội đứng gác trong đêm:

– Cảnh hoang vắng “rừng hoang sương muối” làm nổi bật hình ảnh “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”: hiên ngang, chủ động, “chờ” không sợ hãi.

– Hình ảnh đặc biệt: “Đầu súng trăng treo”

Gợi tả: hai người lính đứng gác dưới ánh trăng, trăng lặn xuống thấp dần khi trời gần sáng và như treo trên đầu súng. Đặt hai biểu tượng đối lập trong cùng một câu thơ: “súng” tượng trưng cho chiến tranh, hiện thực; “trăng” tượng trưng cho vẻ đẹp hòa bình, lãng mạn.

⇒ Tạo nên một biểu tượng đẹp về cuộc đời người lính: chiến sĩ mà thi sĩ, thấu hiểu hiện thực nhưng vẫn không ngừng hi vọng vào tương lai tươi đẹp.

– Nghệ thuật: sử dụng hình ảnh tả thực, cặp hình ảnh đối lập.

3, Kết bài

Kết luận về tác phẩm: miêu tả chân thực những gian khổ thời chiến tranh, ca ngợi tình cảm gắn bó, sẻ chia giữa những người lính, thể hiện khát vọng hòa bình. Liên hệ thực tiễn: tình đồng chí, tương thân tương ái đến nay vẫn còn nguyên giá trị, những người còn sống luôn trăn trở, nhớ thương đồng đội đã hi sinh ⇒ thế hệ trẻ cần luôn tôn trọng, biết ơn những người lính, phát huy tinh thần tương trợ lẫn nhau trong cuộc sống.

Phân tích bài thơ Đồng chí – Mẫu 1

Đồng chí là một bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Chính Hữu và của thơ ca Việt Nam hiện đại. Hễ nói tới thơ Chính Hữu là người ta không thể không nghĩ đến Đồng chí.

Bài thơ được sáng tác năm 1948, sau chiến dịch Việt Bắc năm 1947, đánh dấu sự xuất hiện của một nhà thơ mới trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ lúc đầu dán ở báo tường đơn vị, sau in ở báo Sự Thật, rồi được chép vào sổ tay các cán bộ, chiến sĩ, được phổ nhạc, trở thành tài sản chung của mọi người.

Đồng chí là bài thơ ca ngợi một tình cảm mới, quan hệ mới giữa người với người trong cách mạng và kháng chiến. “Đồng chí” trong ngôn ngữ sinh hoạt chính trị và đời thường đã trở thành tiếng xưng hô quen thuộc, khi cái lí tưởng cách mạng đoàn kết, gắn bó mọi người đã bắt rễ sâu vào đời sống. Nhưng mấy ai đã cảm nhận được nội dung tình cảm phong phú mới mẻ chứa đựng trong hai tiếng ấy?

Để làm hiện lên nội dung mới lạ trong những từ quen thuộc, nhà thơ phải dùng phép “lạ hóa”. Không phải ngẫu nhiên mà bài thơ bắt đầu từ những cái khác biệt và xa lạ. Đây là lời của những người đồng chí tự thấy cái lạ của mình:

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi hai đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.

Mỗi người một quê, đất đai canh tác khác nhau, tập quán, phong tục hẳn là cũng khác. Miền biển nước mặn, đất phèn. Vùng đồi trung du, đất ít hơn sỏi đá. Nhưng con người tự nhận là xa lạ, cách nhau cả một phương trời và chẳng hò hẹn quen nhau. Ấy thế mà có một sức mạnh vô song, vô hình biến họ thành đôi tri kỉ:

Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỉ

Đó là cuộc sống và chiến đấu chung đã làm thay đổi tất cả. Hai dòng thơ chỉ có một chữ “chung”: “đêm rét chung chăn”, nhưng cái chung đã bao trùm tất cả. “Súng bên súng” là chung chiến đấu, “đầu sát bên đầu” thì chung rất nhiều: không chỉ là gần nhau về không gian mà còn gần nhau về ý nghĩ, lý tưởng. “Đêm rét chung chăn” một hình ảnh thật cảm động và đầy ắp kỉ niệm. Nhưng người từng kháng chiến ở Việt Bắc hẳn không ai quên cái rét Việt Bắc và của vùng núi rừng nói chung. Hồi ấy thơ Tố Hữu từng viết: “rét Thái Nguyên rét về Yên Thế, Gió qua rừng Đèo Khế gió sang”. Cũng không ai quên được cuộc sống chung gắn bó mọi người: “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”. Đắp chăn chung trở thành biểu tượng của tình thân hữu, ấm cúng, ruột thịt. Những cái chung ấy đã biến những con người xa lạ “thành đôi tri kỉ”.

Hai chữ “đồng chi!” đứng riêng thành một dòng thơ là đều rất có ý nghĩa. Nhà thơ hoàn toàn có thể thay thế nhau mà không làm sai vần luật, và bài thơ có thể rút ngắn được một dòng. Nhưng nếu viết thế thì hỏng. Đêm rét chung chăn có thể thành trì kỉ, nhưng không thể nói là thành đồng chí, bởi hàm nghĩa hai chữ “đồng chí” rộng lớn vô cùng. “Tri kỉ” là biết mình, và suy rộng ra là biết về nhau. “Đồng chí” thì không phải chỉ biết nhau, mà còn phải biết được cái chung rộng lớn gắn bó con người trên mọi mặt.

Hai chữ “Đồng chí!” đứng thành một dòng thơ đầy sức nặng suy nghĩ. Nó nâng cao ý thơ đoạn trước và mở ra ý thơ đoạn sau. “Đồng chí” là cái có thể cảm nhận mà không dễ nói hết.

Xem thêm: Tài Liệu Chuyên Đề Lí Luận Văn Học Buộc, 7 Chuyên Đề Lý Luận Văn Học

Phần hai bài thơ nói đến tình cảm chung của những người đồng chí. Những câu thơ chia thành “anh, tôi” nhưng giữa họ đều là chung cả. Đoạn hai của bài thơ được mở đầu bằng những dòng tâm sự nhớ nhà. Bây giờ họ chia sẻ với nhau những tình cảm quê hương và gia đình. Đối với giờ họ chia sẻ với nhau những tình cảm quê hương và gia đình. Đối với các chàng trai áo nâu ra trận lần đầu nhớ nhà là nỗi niềm thường trực:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Đối với người nông dân, làm ruộng là quan trọng nhất, nhưng việc ấy đành nhờ bạn thân làm hộ. Gian nhà tổ ấm cũng đành chịu hi sinh “..mặc kệ gió lung lay”. Câu thơ ngang tang, đượm chất lãng mạn như muốn nâng đỡ con người vượt lên cái bất đắc dĩ của hoàn cảnh. Thử hỏi ai có thể “mặc kệ” để cho gió làm xiêu đổ nhà mình? Đó là một thoáng tếu nhộn làm se lòng người. hai dòng thơ ấy đầy ắp nỗi nhớ, mặc dù tới dòng thứ ba thì chữ “nhớ” mới xuất hiện:

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính

Người lính trong thơ Chính Hữu đã rất nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng họ thương nhất vẫn là người ở nhà nhớ họ, dõi theo tin tức của họ – những người ở nơi nguy hiểm. Hình ảnh “giếng nước gốc đa” thật đậm đà, kín đáo và ý nhị làm sao! “Giếng nước” là nơi dân làng gặp gỡ khi sáng, chiều. “Gốc đa” là nơi dân làng nghỉ ngơi những khi trưa nắng. Những lúc ấy họ sẽ hỏi thăm những người trai ra trận. Nhưng “giếng nước, gốc đa” cũng là nơi hò hẹn, tình tự lứa đôi: “Trăm năm dầu lỗi hẹn hò, cây đa bến cũ con đò khác đưa”. Biết bao là nhớ nhung. Nhưng người lính không nói là mình nhớ, những dòng thơ nén tình riêng vì sự nghiệp chung, bằng những lời ý nhị, không một chút ồn ào.

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Luận văn