kỹ năng đưa lý luận văn học vào bài nghị luận văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.04 KB, 16 trang )

Đang xem: Kỹ năng đưa lý luận văn học vào bài nghị luận văn học

A. PHẦN MỞ ĐẦU
Là một GV, không ai trong chúng ta không mong muốn một ngày nào đó
những học sinh thân yêu gặt hái thành công trong học tập, đặc biệt là đối với các
GV dạy môn Ngữ văn ở trường Phổ thông. Bởi lẽ trong một thời đại mà tất cả
các môn Khoa học xã hội đều đang mất dần chỗ đứng, vì nhiều lí do khách quan
và chủ quan, học sinh còn ít em quan tâm yêu thích thì đó là niềm khích lệ vô
cùng lớn lao cho người dạy.
Vậy làm thế nào để HS đạt kết quả cao trong môn Ngữ văn ? Đây là câu hỏi
lớn, cũng là trăn trở của nhiều GV tâm huyết. Nhưng có một thực tế là: HS
chúng ta hiện nay khi viết văn NLVH có một thói quen cố hữu là phân tích rất
sâu những vấn đề nội dung tư tưởng mà quên đi những giá trị nghệ thuật, mà
những giá trị nghệ thuật này muốn lí giải cho đúng, cho hay phải nhìn từ góc độ
lí luận văn học. Hơn nữa, trong quá trình học môn Ngữ văn, nhất là khi làm bài,

nhận thức của các em HS còn hiện tượng hay hiểu sai hoặc nhầm lẫn các khái
niệm, thuật ngữ… Quan trọng hơn, từ đó dẫn đến HS chưa giải quyết được một
cách chính xác, đầy đủ các nội dung theo yêu cầu đề bài, hoặc viết rất sơ sài, mơ
hồ, chung chung.
Trong khi đó, những bài viết tốt thường là những bài mang tính lí luận cao.
Những bài viết đó đã phát hiện được vấn đề, cảm nhận sâu sắc, diễn đạt trôi
chảy, giàu cảm xúc. Thành quả ấy, phần lớn do các em được thu nhận và biết
vận dụng kiến thức LLVH vào quá trình làm bài. Sự thăng hoa trong cảm xúc,
sự trưởng thành trong suy nghĩ, sự đầy đủ trong kiến thức là các yếu tố quyết
định sự thành công trong bài làm của các em.
Qua thực tiễn giảng dạy, tôi nhận thấy rằng việc vận dụng kiến thức LLVH
vào làm bài là vô cùng cần thiết, thao tác này được ví như một nền móng vững

chắc cho bài làm, là chìa khóa giúp cho bài làm của các em sâu sắc hơn về ý
tưởng, chặt chẽ hơn về lập luận, thuyết phục hơn khi đưa ra luận cứ.
Xuất phát từ thực tế đó, nhằm giúp cho HS nắm được tầm quan trọng của
những kiến thức LLVH đối với bài làm văn NLVH từ đó hình thành cho các em
kĩ năng sử dụng kiến thức LLVH trong khi viết văn như một thói quen cần thiết,
tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Hướng dẫn Học sinh vận dụng kiến thức Lý luận
văn học vào bài làm văn Nghị luận văn học”

1

B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

I.

CƠ SỞ CỦA VẤN ĐỀ

1. Cơ sở lý luận
LLVH là một chuyên ngành nghiên cứu về mối quan hệ giữa văn học với
hiện thực đời sống, quan hệ giữa văn học với các loại hình nghệ thuật khác, từ
đó làm nổi bật đặc trưng, vị trí của văn học.
Cùng với đó, LLVH đi sâu giải phẫu, khám phá cấu trúc nội tại của TPVH
với các yếu tố không gian, thời gian, nhân vật, người kể chuyện, cốt truyện, kết
cấu…; đặc trưng các thể loại như thơ ca, tiểu thuyết, truyện ngắn…
LLVH còn tìm hiểu quá trình vận động hay còn gọi là tiến trình văn học và

đặc trưng thi pháp nghệ thuật của các xu hướng, trường phái, trào lưu văn học
qua các thời kì lịch sử xã hội.
Nhìn chung, kiến thức LLVH mang tính tổng kết, khám phá những vấn đề
cốt lõi, bản chất của văn học.
Chính vì thế, nắm kiến thức cơ bản của LLVH là một cách giúp người học
tập, nghiên cứu văn học tự trang bị cho mình một bảo bối, cẩm nang để chủ
động, tự tin trong mọi tình huống, có thể giải mã, cắt nghĩa nhiều hiện tượng tác
giả, TPVH từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây.
2. Cơ sở thực tiễn
Từ hiểu, nắm vững kiến thức LLVH đến vận dụng kiến thức ấy vào bài làm
văn là cả một kĩ năng mà không phải HS nào cũng làm được.
Vậy vì sao trong quá trình viết văn NLVH cần phải vận dụng kiến thức

LLVH? Khi viết một bài văn NLVH, HS cần phải hiểu và nắm vững hệ thống
kiến thức lí luận đề lồng ghép, găm cài vào việc giải thích, đánh giá và diễn đạt
để ý kiến đưa ra khi bình luận hoặc phân tích, bình giảng có một cơ sở vững
chắc, có chiều sâu. Khi bài viết có kiến thức LLVH thì lập luận, hành văn diễn
đạt sẽ có chủ kiến, lý lẽ, lập luận bảo vệ những ý kiến bàn luận sẽ được đúng
đắn, khoa học và cảm xúc. Những kiến thức LLVH giúp HS phát hiện vấn đề,
phát hiện những tín hiệu thẩm mỹ mang mầu sắc khúc chiết và lô gic.
II.

THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ

1. Đối với Giáo viên

Bên cạnh nhiều GV ý thức được tầm quan trọng của kiến thức LLVH đưa
vào bài làm văn thì một số GV chưa thực sự chú trọng vào kiến thức LLVH. Họ
quan niệm giờ dạy Ngữ văn chủ yếu dạy đọc – hiểu văn bản bởi điều này góp
phần lớn trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy. Tuy nhiên, sẽ toàn diện hơn
2

nếu GV một mặt bồi dưỡng cảm xúc thẩm mỹ cho HS, mặt khác nâng cao nhận
thức, phát huy tối đa năng lực độc lập suy nghĩ ở HS bằng những thao tác tư duy
khái quát, trừu tượng để bài làm của các em tránh thiên về chủ nghĩa duy cảm.
Hơn nữa, nhiều GV chúng ta chưa thật sự đầu tư thỏa đáng trong các tiết dạy
phân môn LLVH để từ đó tích hợp với phân môn đọc- hiểu văn bản và làm văn.

Kiến thức GV đưa vào hời hợt, HS không nắm chắc, từ đó kĩ năng vận dụng
kiến thức LLVH vào bài làm là hạn chế, không muốn nói là không có.
2. Đối với Học sinh
Từ trước tới nay, nói tới LLVH, tâm lí chung của các em HS đều ngại, ngại
vì một ý nghĩ đầy ám ảnh rằng đây là mảng kiến thức khô khan, cho nên các em
không có tinh thần, không có hứng thú để học, nói gì là vận dụng vào để bài văn
thêm chiều sâu.
Nhiều HS hiện nay có tư tưởng: Chỉ cần nắm kiến thức trọng tâm, diễn đạt
tương đối trôi chảy là được, mà những vấn đề này phần đọc- hiểu văn bản và
làm văn có thể giải quyết giúp các em. Chính vì vậy, các em chưa thật sự chú ý
được tầm quan trọng của kiến thức LLVH mang lại trong bài làm của mình.
Bên cạnh đó, nhiều HS ý thức được tầm quan trọng của LLVH nhưng việc

vận dụng nó vào bài làm thì chưa thật nhuần nhuyễn, chưa hợp lý, chỗ thì nhiều
quá, chỗ thì nông quá, chưa đạt yêu cầu.
Năm bắt được thực trạng này để người dạy thấy rõ hơn trách nhiệm của bản
thân trong quá trình dạy kiến thức LLVH, từ đó giúp các em HS vận dụng kiến
thức đó một cách nhuần nhuyễn vào bài làm của mình.
III.

GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1. Vận dụng kiến thức LLVH vào bài văn như thế nào cho hợp lý?
1.1: Những dạng đề có sử dụng kiến thức LLVH
GV trong quá trình giảng dạy cần định hướng cho HS những dạng đề NLVH

có sử dụng kiến thức LLVH. Đó là:
– Dạng đề phân tích, bình giảng đoạn thơ, đoạn văn, tác phẩm văn học
– Dạng đề phân tích, bình luận các vấn đề văn học
– Dạng đề phân tích, bình luận 1 ý kiến đánh giá về 1 giai đoạn văn học, 1
khuynh hướng văn học
– Dạng đề chứng minh, bình luận 1 ý kiến về LLVH
Trong các dạng đề trên đây, dạng đề chứng minh, bình luận 1 ý kiến về
LLVH đương nhiên HS phải dùng những kiến thức LLVH để lý giải và lập luận
3

trong bài làm của mình. Còn lại các dạng khác, mặc dù đề bài không yêu cầu

bàn luận về vấn đề lý luận nhưng trong quá trình làm bài, Hs cần phải dùng kiến
thức LLVH vào lập luận, khi ấy bài viết sẽ chặt chẽ và có chiều sâu.
1.2: Tùy thuộc từng dạng đề mà vận dụng kiến thức LLVH
Việc vận dụng kiến thức LLVH phải hợp lý thì bài văn mới có sức nặng.
Chính vì vậy, tôi đã hướng dẫn HS tùy từng dạng đề để đưa vào những kiến thức
LLVH hợp lý
Ví dụ 1: Bình luận về truyện ngắn “Hai đứa trẻ” ( Thạch Lam)
HS có thể viết: “Một truyện ngắn hay không chỉ hấp dẫn ở cốt truyện mà nhà
văn phải chọn lọc được những tình huống độc đáo. Dường như nhà văn nào
cũng tìm cho mình một lối viết mang tính đặc thù. Bởi nghệ thuật là lĩnh vực
mang tính cá thể, không lặp lại ai, không lặp lại cả chính mình. Chính vì thế đến
với Thạch Lam ta thấy truyện của ông là loại truyện không có cốt truyện, một

loại truyện tâm tình…”
Ví dụ 2: Khi bình những câu thơ bất kì của bài thơ nào đó, tôi hướng dẫn HS
có thể vận dụng một số quan niệm về thơ của các nhà thơ xưa, nay, các nhà phê
bình, nghiên cứu để đưa vào bài làm của mình như:
– Bàn về ngôn ngữ trong thơ, Nguyễn Đình Thi viết: “Điều kì diệu của thơ là
mỗi tiếng, mỗi chữ ngoài cái nghĩa của nó, ngoài công dụng tên sự vật, bỗng tự
phá tung mở rộng ra, gọi đến xung quanh nó những cảm xúc, những hình ảnh
không ngờ, tỏa ra xung quanh nó một vùng ánh sáng động đậy. Sức mạnh nhất
của câu thơ là sức gợi ấy”
– “Thơ luôn giữ được phẩm chất đẹp và sức sống thanh xuân của mình nhờ ở sự
sáng tạo” (Hà Minh Đức)
– “Thơ không cần nhiều từ ngữ. Nó cũng không quan tâm đến hình xác của sự

sống. Nó chỉ cần cảm nhận và truyền đi một chút linh hồn của cảnh vật thông
qua linh hồn thi sĩ” (Nguyễn Đăng Mạnh)
– “ Thích một bài thơ thực chất là thích một con người đồng điệu” (Hoài Thanh)

Ví dụ 3: Khi bình những câu thơ hay, không chỉ dừng lại ở việc chỉ ra cái
hay, cái đẹp của từ ngữ, hình ảnh mà còn phải đan xen những lí lẽ có tính lí luận
thì bình nó mới có sức thuyết phục và ấn tượng.
Khi bình câu thơ: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”, HS có thể viết: “Thơ là
tiếng nói của trái tim, thơ phát khởi từ trái tim nhà thơ, thơ cũng chính là âm
vang cất lên từ hiện thực đời sống và trái tim nhà thơ cùng rung lên nhịp điệu

4

của cuộc sống muôn người. Bởi vậy câu thơ đã thể hiện tình yêu mãnh liệt đến
độ máu thịt của Hàn Mặc Tử, để rồi từ đó thi nhân mới có thể chỉ bằng vài ba
nét vẽ mà làm sống dậy những nét đẹp linh hồn của Vĩ Dạ đến thế!
Ví dụ 4: Khi phân tích, bình giảng thơ Bác, ở bất kì bài làm nào HS đều phải
đưa vào những câu có màu sắc lý luận như:
– Thơ là tấm gương của tâm hồn, thơ của Bác chính là tâm hồn cao đẹp, là trí tuệ
sáng suốt, là dũng khí kiên cường của một bậc đại nhân, đại trí, đại dũng
– Thơ ca là hình thức kí thác tư tưởng và tình cảm, mỗi bài thơ của Bác đều như
một dấu ấn riêng của từng thời điểm, của từng khoảnh khắc…
Ví dụ 5: Bàn về vấn đề tình yêu quê hương đất nước trong “Việt Bắc” (Tố

Hữu), HS có thể viết: “Anh em văn nghệ sĩ trong cuộc kháng chiến chống Pháp
dường như đều quán triệt một quan điểm mà Nam Cao đã có lần phát biểu:
“Hãy sống rồi hãy viết”. Quả thực sau Cách mạng Tháng Tám, người nghệ sĩ đã
được cùng sống và chiến đấu với quần chúng Cách mạng, trong cái hiện thực
nóng bỏng của đất nước, càng đi nhiều, càng sống nhiều trên mảnh đất quê
hương thì tình yêu đất nước càng mãnh liệt và cháy bỏng hơn bao giờ hết.
Những câu thơ được viết ra từ cảm xúc trào dâng không ngăn nổi trong ngòi bút
Tố Hữu là một ví dụ…”
Ví dụ 6: Phân tích giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm “Chí
Phèo” của Nam Cao, HS có thể viết: “Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng chứa
đựng thái độ của nhà văn đối với cuộc sống, trước hết là đối với con người.
Đằng sau hiện thực đen tối của xã hội Việt Nam những năm 1930, vẫn để lộ ra

cái nhìn đầy cảm thông đau xót của Nam Cao đối với những con người bị tước
đoạt mất cái quyền được làm người…”…
2. Những kiến thức LLVH cần thiết cung cấp cho HS
Ngoài những kiến thức trong SGK mà HS đã tìm hiểu và nghiên cứu, GV
cần phải cung cấp thêm một số khái niệm, định nghĩa và những vấn đề có liên
quan đến lý luận để giúp HS có cái nhìn phong phú về LLVH:
a. Những hiểu biết về thơ và văn xuôi:
– Bản chất của thơ là thể hiện cảm xúc bằng phương pháp trữ tình, thơ không chỉ
diễn tả những rung cảm ngọt ngào, thơ mộng, trữ tình mà thơ còn diễn tả những
trạng thái trần trụi, mộc mạc, khỏe khoắn một cách giản dị, chân chất.
– Câu thơ hay là câu thơ có thể níu giữ được lòng người. Một từ được nhà thơ
chọn lọc là một từ không thể thay thế bất kì từ khác vì: Văn học là nghệ thuật

của ngôn từ, không có ngôn ngữ không có văn học, không có từ hay không có “
nhãn tự”.
5

– Mỗi rung động của nhà thơ là một xúc cảm mãnh liệt dồn tụ trên đầu ngọn bút,
song rung động ấy bao giờ cũng phụ thuộc vào thế giới quan, nhân sinh quan
của nhà thơ.
– Nhịp điệu trong văn xuôi là nhịp điệu không bền vững, luôn thay đổi và
chuyển chỗ không ngừng.
– Về hình thái biểu hiện của văn xuôi là tiếng nói đi sát và gần như trùng với
tiếng nói hàng ngày, đó là tiếng nói tự nhiên, giàu chất liệu và sức sống hiện

thực.
– Bất kì tác phẩm văn xuôi nào có sức hấp dẫn kì diệu đều có cái thi vị của chất
thơ. Những đoạn văn hay bao giờ cũng có màu sắc của chất thơ.
b. Những hiểu biết về chất thơ trong đời sống và văn học:
– Đặc điểm của thơ là gắn với sự rung động và cảm xúc, không có cảm xúc
không có thơ. Người làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt thể hiện sự nồng cháy
trong lòng.
– Thơ là nghệ thuật kì diệu bậc nhất của trí tưởng tượng. Thơ là hình thức lao
động sáng tạo, phải có trí tưởng tượng phong phú mới có thể diễn tả cảm xúc
của mình trước hiện thực.
– Ở đâu có sự sống, ở đó có thơ ca.
– Thơ là tấm lòng, thơ cũng chính là cuộc sống.

– Trí tưởng tượng đã tạo nên cho thơ nhiều bức tranh có giá trị tạo hình mà giàu
sức liên tưởng.
– Thơ là cái nhụy của cuộc sống vì nó được chưng cất từ cuộc sống của con
người như giọt rượu được chưng cất từ những hạt gạo.
– Thói quen thường tình, thường quan niệm thơ là mộng, là ảo, là hư, là lãng
mạn, bay bổng. Thơ không thể là cảnh đời lam lũ, mệt nhọc, tăm tối, chết chóc,
gian khổ, trong khi hiện thực đời sống là một hiện thực đa dạng với muôn vàn
cảnh ngộ. Có những cái nên thơ nhưng cũng có những cái không thể nên thơ, vì
thế nhà thơ có tài năng thực sự phải là người biến cái không nên thơ trở thành
rất thơ.

c. Một số khái niệm LLVH khác HS không thể không biết:

– Thơ là thơ, đồng thời là họa, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng.
– Cuộc đời là nơi khơi nguồn cũng là nơi hướng tới của văn học.

6

– Nếu thừa nhận văn học phải sáng tác bằng một thứ tiếng cụ thể, thông qua một
trái tim cụ thể thì văn học phải mang tính dân tộc.
– Văn học là tiếng nói của tình cảm, là hình thức nhuần nhụy và sắc bén của tư
tưởng.
– Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết, nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó
không phải là tiếng thét khổ đau, hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra

những câu hỏi hoặc không trả lời những câu hỏi.
– Tính đa nghĩa của từ ngữ tạo nên vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ ca. Một tác phẩm
văn chương vượt qua được sự băng hoại của thời gian là tác phẩm luôn làm nảy
sinh nhiều cách hiểu khác nhau.
– Khái niệm: Điển hình nghệ thuật, cảm hứng lãng mạn chủ nghĩa, cảm hứng
hiện thực chủ nghĩa, cảm hứng hiện thực xã hội chủ nghĩa, tính dân tộc, tính
nhân dân…
3. Một vài ví dụ có vận dụng kiến thức LLVH khi viết văn
Ví dụ 1: Cuộc đời tự nó là một nửa của trang văn, nửa kia là người nghệ sĩ
và Thạch Lam là một trong những tác gia văn học xuất sắc. Tuy có chân trong
Tự Lực Văn Đoàn nhưng trái tim Thạch Lam luôn thức dậy cùng nhịp với kiếp
người nghèo khổ, xác xơ, lắt lay, tù đọng. Hiện thực cuộc sống ấy là mảnh đất

Xem thêm: Tham Luận Đại Hội Chi Đoàn Trường Tiểu Học, Đại Hội Chi Đoàn Trường Tiểu Học Ngọc Thụy

màu mỡ để ông gieo mầm nghệ thuật và bao tác phẩm đã được hoài thai, nhen
nhóm. “ Hai đứa trẻ” là trang viết tài hoa tinh tế của ông.
Ví dụ 2: “ Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn in đậm dấu ấn phong cách nghệ
thuật của Thạch Lam. Phong cách nghệ thuật là cá tính sáng tạo, cái “ tạng”
riêng, là nét riêng độc đáo của mỗi người nghệ sĩ để họ có thể tự khẳng định vị
thế riêng trên văn đàn, thi đàn dân tộc và nhờ nét riêng đó mà người đọc nhận
biết được tác giả này, tác giả kia. Phong cách nghệ thuật thường thể hiện trên cả
hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Phong cách một khi đã xác định thì
định hình rõ nét, rất ít biến đổi. Đến với trào lưu văn học lãng mạn hiện đại,
Thạch Lam cũng tự khẳng định mình bằng một phong cách riêng khó lẫn- văn
nhân sáng tạo ra loại truyện không có cốt truyện đặc biệt, mỗi truyện như một
bài thơ trữ tình đượm buồn, với giọng điệu nhỏ nhẹ, tâm tình, ngôn ngữ tinh tế,

giàu hình ảnh, giàu sức gợi, ở đó chất hiện thực và lãng mạn đan xen. Truyện
ngắn “ Hai đứa trẻ” chính là linh hồn của phong cách ấy.
Ví dụ 3: Nhân vật điển hình là con người được miêu tả trong văn học nhưng
mang được đặc tính chung tiêu biểu cho một bộ phận, một tầng lớp người hay
một giai cấp trong xã hội, đồng thời, con người đó phải có cá tính riêng biệt độc
đáo không giống ai và được nhà văn miêu tả một cách sinh động trên trang viết,
tóm lại là “ một con người vừa lạ, vừa quen, vừa mang tính khái quát hóa, lại
7

vừa mang tính cá thể hóa”. “ Chí Phèo” trong tác phẩm cùng tên của nhà văn
Nam Cao là một nhân vật điển hình như vậy.

IV.

BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1. Dạy kiến thức LLVH theo từng chủ đề
Trước khi giúp các em HS vận dụng thành thạo kiến thức LLVH vào bài văn,
theo tôi cần cung cấp kiến thức LLVH cho các em trong các tiết dạy LLVH theo
phân phối chương trình của Bộ, các tiết làm văn, đọc- hiểu văn bản. Để các em
có cái nhìn hệ thống về kiến thức LLVH, tôi chia thành 4 chuyên đề sau:
Chuyên đề 1: “ Đề tài, chủ đề, tư tưởng trong TPVH”. Đề tài này cung
cấp những kiến thức cơ bản liên quan, giúp học sinh nắm vững và phân biệt
những khái niệm, đặc biệt là nội hàm của nó, để từ đó, có khả năng làm chủ tiếp

cận và tiếp nhận TPVH. Sau đó, có những lí giải hợp lý trong bài làm của mình
khi đề bài ra về những vấn đề liên quan.
Chuyên đề 2: “ Nhân vật trong tác phẩm văn học” giúp HS hiểu rõ kiểu
và loại hình nhân vật, xác định được đâu là nhân vật chính, nhân vật trung tâm
của tác phẩm, để khi làm bài, có thể nhận rõ phần nội dung trọng tâm, từ đó có
sự tập trung thích đáng, khi phân tích nhân vật tránh được sự hời hợt, qua loa, sơ
sài.
Chuyên đề 3: “ Ngôn từ Nghệ thuật trong TPVH” trang bị cho HS những
hiểu biết cơ bản về giá trị ngôn từ trong tác phẩm văn học, hiểu được rằng
TPVH là nghệ thuật ngôn từ, từ đó chú ý đến thao tác phân tích, lí giải cái hay,
cái độc đáo của ngôn từ, tìm hiểu được tầng nghĩa sâu sắc mà ngôn từ chuyển
tải. Khi làm bài, HS tránh được kiểu chỉ phân tích nội dung mà không chú trọng

đến nghệ thuật sử dụng từ ngữ của tác giả trong tác phẩm, nhất là những tác
phẩm trữ tình.
Chuyên đề 4: “ Thể loại văn học- tác phẩm tự sự và tác phẩm trữ tình”
giúp HS có những hiểu biết về đặc trưng của từng thể loại khác nhau, để khi làm
bài văn có những xử lí thích hợp. Nhất là với tác phẩm trữ tình, khi phân tích,
HS thường chỉ quan tâm bài thơ đó nói gì chứ ít quan tâm cách nói thế nào, ít
khi thấy được hiện tượng độc đáo thường thấy trong thơ là “ nhãn tự”, “ thi
nhãn”…Nếu có kiến thức LLVH sâu, khi làm bài các em sẽ có những lí giải sâu
sắc, bài làm sẽ chất lượng hơn.
Bốn chuyên đề này tôi sẽ tập trung dạy vào những tiết học LLVH. Ngoài ra,
tôi cũng sẽ chọn những thời điểm thích hợp: tích hợp với đọc- hiểu văn bản và
làm văn để lồng, xen kẽ vào bởi những tiết LLVH thường rơi vào thời điểm cuối

kì, cuối năm mà lúc đó HS sẽ tiếp thu một cách thụ động và uể oải.

8

2. Lấy dẫn chứng tiêu biểu trong quá trình học để làm rõ vấn đề
LLVH có tính chất của một môn lí thuyết. Vì vậy, để những kiến thức đó
không quá xơ cứng và khô khan, khó hiểu, xa lạ với HS, để HS vận dụng một
cách nhuần nhuyễn, GV cần đưa ví dụ vào trong quá trình dạy phân môn làm
văn.
Ví dụ 1: Kiến thức LLVH về giá trị của văn bản văn học, tôi lấy những ví
dụ để định hướng cho HS nắm bắt rõ vấn đề. Theo SGK, TPVH có bốn giá trị

cơ bản: thẩm mĩ, nghệ thuật, nhận thức và giáo dục, từ đó tôi giúp các em vận
dụng kiến thức LLVH để làm bài văn như sau:
– Những khía cạnh giá trị thẩm mỹ của TPVH sẽ giúp các em rất nhiều trong
việc phân tích vẻ đẹp của những áng văn, đoạn thơ. Ví dụ: vẻ đẹp của khí phách,
phong thái hiên ngang, bất khuất của nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn “
Chữ người tử tù”; vẻ đẹp của phong cảnh nên thơ, mơ mộng, thấm đẫm tình
người trong bài thơ “ Đây thôn Vĩ Dạ”; vẻ đẹp của tâm hồn, trái tim người thanh
niên khi bắt gặp lí tưởng trong bài thơ “ Từ ấy”; vẻ đẹp của sự tài hoa, bất khuất
ở hình tượng người lái đò trong tùy bút “ Người lái đò Sông Đà”…
– Kiến thức về giá trị nghệ thuật giúp các em định hướng phân tích đặc điểm
nghệ thuật của các tác phẩm. Nếu trong đề thi bắt gặp những câu hỏi như: nêu
đặc điểm nghệ thuật của các truyện ngắn: Hai đứa trẻ, Chữ người tử tù, Chí

Phèo…; các bài thơ: Vội vàng, Đàn ghi ta của Lorca; tùy bút: Người lái đò Sông
Đà; bút kí: Ai đã đặt tên cho dòng sông?…, tôi hướng dẫn các em cần định
hướng khai thác nội dung, lập dàn ý cho bài viết bằng cách tập trung vào các
khía cạnh biểu hiện của giá trị nghệ thuật như đã nêu trong SGK:
– Cách nhà văn sử dụng ngôn ngữ.
– Cách nhà văn chọn lọc các chi tiết, cách miêu tả nhân vật, tình huống,
cách miêu tả tâm lí.
– Cách nhà văn kết cấu, bố cục tác phẩm.
– Những hiểu biết về giá trị nhận thức sẽ giúp các em rất nhiều trong việc phân
tích tâm hồn, tính cách nhân vật. Giá trị nhận thức mà tác phẩm văn học mang
đến cho các em chủ yếu là về ý nghĩa nhân sinh. Qua những hình tượng nhân
vật, các em có thể nhìn sâu vào những khía cạnh tinh tế của tâm hồn, có thể

nhận thấy biến đổi của tính cách, từ đó có thể nhận thấy ý nghĩa mối liên quan
giữa cá nhân với cuộc sống nhân loại. Chẳng hạn, khi đứng trước các yêu cầu
như:
– Phân tích diễn biến tâm trạng của Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở.
– Nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân.
9

– Nhân vật bà cụ Tứ trước cảnh con trai lấy vợ.
– Nhân vật Trương Ba khao khát được sống là chính mình…
thì tôi hướng dẫn HS hướng sự phân tích của mình vào tất cả những chi tiết liên
quan đến tâm trạng nhân vật: từ những suy nghĩ, lời nói đến hành động nhân

vật. Các em cần phân tích được quá trình, diễn biến tâm lí của những nhân vật
ấy.
– Kiến thức về giá trị giáo dục của văn học có thể giúp HS có những định
hướng tư duy để rút ra những luận điểm sâu sắc về ý nghĩa nhân văn của tác
phẩm. Những nội dung này thường thích hợp trong những đoạn văn có tính chất
tổng kết hoặc để ở phần kết bài.
Ví dụ 2: Phần kiến thức LLVH về những biểu hiện của phong cách văn học
sẽ là cơ sở để có thể có những định hướng trong việc nêu lên những nhận xét về
tác phẩm một cách chính xác và có sức thuyết phục cao. Phân tích, bình luận
văn học không có gì khác chính là nêu bật được những biểu hiện của phong
cách văn học của mỗi tác giả. Vậy thì HS chỉ cần căn cứ vào những khía cạnh
biểu hiện của phong cách văn học đã nêu trong SGK , từ đó “ soi” vào tác phẩm

cần phân tích. Cụ thể, tôi hướng dẫn HS hãy tìm ra những giá trị độc đáo của
mỗi nhà văn trong:
– Cách nhìn, giọng điệu.
– Việc lựa chọn đề tài, xác định chủ đề, tìm hình ảnh, sắp xếp sự phát
triển của cốt truyện.
– Việc sử dụng ngôn ngữ, thể loại.
Trong việc nêu phong cách văn học của một tác giả, tôi hướng dẫn HS nên
phát huy tư duy so sánh. Ví dụ như: nếu gặp đề yêu cầu phân tích về cảm xúc
tình yêu trong bài thơ hoặc một đoạn trích bài thơ “ Tương tư” (Nguyễn Bính),
sau khi nêu được những luận điểm về cảm xúc yêu đương trong thi phẩm này,
các em còn biết so sánh để làm bật lên sự khác biệt về cách thể hiện cảm xúc
yêu đương của Nguyễn Bính với cách thể hiện tình yêu trong bài “ Vội vàng”

(Xuân Diệu) thì chắc chắn bài viết của các em sẽ sâu sắc.
3. Tích hợp linh hoạt với phân môn đọc – hiểu văn bản và làm văn

Ở môn Ngữ văn, với sự góp mặt của các phân môn: Đọc- hiểu VB, văn học
Sử, LLVH thì: Người GV cần phải biết giải quyết mối quan hệ nội tại giữa các
phân môn bằng cách tích hợp. Lấy VB VH làm trung tâm, điều quan trọng GV
phải làm được là: Định hướng cho HS những con đường có thể tiếp cận với VB
được. Điều đó có nghĩa là: LLVH không thể tách rời việc cắt nghĩa VB và
ngược lại. Thực hiện việc tích hợp giữa LLVH và phân tích tác phẩm một mặt
10

làm cho bài viết của HS trở nên sắc sảo hơn, hấp dẫn hơn, mặt khác cũng tránh
cho HS rơi vào trường hợp bị GV nhận xét là bài viết sơ sài, thiếu sự thuyết
phục.
Xác định được điều đó nên trong quá trình giảng dạy, tôi đã kết hợp LLVH
trong những tiết đọc – hiểu VB, văn học Sử và làm văn theo cách: Cung cấp và
củng cố thêm một số khái niệm LLVH hoặc theo cách vận dụng những hiểu biết
về LLVH để lí giải hiện tượng văn học, từ đó giúp HS nhận thức vấn đề sâu hơn,
từ đó biết cách vận dụng trong bài làm của mình.
Ví dụ: Khi dạy đoạn trích “ Vĩnh biệt Cửu Trùng đài”, tôi dẫn dắt kiến thức
LLVH: nhân vật văn học để các em phân tích cho chính xác. Bởi nhận biết
được vị trí của nhân vật chính, nhân vật phụ và nhân vật trung tâm cũng là một
nguyên tắc giúp các em HS có nhận định khách quan về giá trị nghệ thuật của

tác phẩm. Nhiều nhận định truyền thống cho rằng Vũ Như Tô là nhân vật trung
tâm. Điều này dẫn tới sự cắt nghĩa: Vấn đề trung tâm của tác phẩm là mâu thuẫn
giữa nghệ thuật và đời sống nhân sinh. Tuy nhiên, khi dạy, tôi hướng dẫn HS từ
kiến thức LLVH về nhân vật văn học, tôi định hướng các em Đan Thiềm mới là
nhân vật trung tâm. Chính Đan Thiềm là người gợi mở ý tưởng nghệ thuật cho
Vũ Như Tô. Cũng chính người cung nữ ấy đã làm cháy lên trong Vũ Như Tô
ngọn lửa đam mê sáng tạo trong công trình kiến trúc Cửu Trùng đài… Nhìn
chung Đan Thiềm là trung tâm quy tụ xung đột của vở kịch. Nhận định về Đan
Thiềm như thế cũng hoàn toàn phù hợp với nội dung lời đề tựa của nhà văn
Nguyễn Huy Tưởng: “ Than ôi ! Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải ?
ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm”. Từ đó, tôi
giúp các em nhận định vấn đề: Vấn đề trung tâm của “Vũ Như Tô” chính là một

tuyên ngôn về vai trò, sứ mệnh của người cầm bút. Người cầm bút là người có
đủ tinh tế để phát hiện ra những cái đẹp và có đủ khả năng để khiến những cái
đẹp ấy cháy sáng. Khi ấy, HS sẽ thể hiện sâu sắc hơn trong bài làm văn của
mình.
4. Kiểm tra cách vận dụng kiến thức LLVH vào bài văn thông qua hình
thức kiểm tra, đánh giá
Sau khi HS đã có những kiến thức LLVH nhất định, tôi sẽ yêu cầu trình bày
lại kiến thức các em đã nắm được thông qua những hình thức như: thuyết trình
trước tiết học, viết bài kiểm tra trên giấy… Khi đó, HS sẽ tái hiện kiến thức theo
cách hiểu của mình, GV sẽ bổ sung nếu chưa đầy đủ, sửa chữa nếu hiểu chưa
đúng.
Trên cơ sở nắm vững lý thuyết, tôi sẽ đưa ra đề bài cụ thể, yêu cầu HS phải

vận dụng được ít nhất 3 vấn đề LLVH trong bài làm của mình.

11

Ví dụ: Khi bình câu thơ: “ Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên” (Đây thôn Vĩ
Dạ – Hàn Mặc Tử), tôi yêu cầu HS trong bài làm của mình phải có:
– Vận dụng 1 số quan niệm về thơ của các thi nhân xưa, nay để đan cài
vào quá trình phân tích, bình giảng
– Không chỉ dừng lại ở việc chỉ ra cái hay, cái đẹp của từ ngữ, hình ảnh,
biện pháp tu từ của câu thơ mà phải đưa vào kiến thức LLVH đặc trưng của thơ:
“ Thơ là tiếng nói của trái tim, thơ phát khởi từ trái tim nhà thơ, thơ cũng chính

là âm vang cất lên từ hiện thực của đời sống và trái tim nhà thơ cùng rung lên
nhịp điệu của cuộc sống muôn người.”
– Đưa vào một số nhận định hay của các nhà nghiên cứu, phê bình về
câu thơ này của Hàn Mặc Tử để tăng sức nặng cho lời bình của mình.
5. Hướng dẫn HS vận dụng kiến thức LLVH vào trong phần mở bài, kết
bài và chuyển luận điểm trong bài văn
5.1: Mở bài, kết bài
Để HS có những mở bài và kết bài ấn tượng, giàu sức thuyết phục, tôi
thường hướng dẫn HS xen lẫn kiến thức LLVH. Có thể là kiến thức LLVH
chuẩn đã học hoặc có thể là câu nói của nhà phê bình, nghiên cứu có liên quan
đến LLVH:
Ví dụ 1 ( mở bài) : Nhân vật là linh hồn của tác phẩm, là khoảng sáng của

trang văn, mỗi cơ thể nghệ thuật đều phải nhờ vào sức sống của nhân vật để
trường tồn. Nguyễn Tuân trên hành trình đi tìm cái đẹp ở đời với một niềm đam
mê hiếm có đã sáng tạo được nhiều nhân vật có sức sống bền lâu trong lòng độc
giả và Huấn Cao ở truyện ngắn “ Chữ người tử tù” được xem là nhân vật đẹp
nhất của đời văn ông, giúp ông chuyển tải nhiều thông điệp nghệ thuật, đồng
thời bày tỏ quan niệm nghệ thuật về cái Đẹp.
Ví dụ 2 ( mở bài) “ Một nhà nghệ sĩ vĩ đại đến mấy thì trong tác phẩm của
anh ta cũng phải phản ánh được vài ba chi tiết của hiện thực” ( Lê Nin) và Nam
Cao đích thức là nhà nghệ sĩ vĩ đại khi ông phản ánh chân thực bức tranh cuộc
sống làng quê- làng Vũ Đại- một hình ảnh thu nhỏ của xã hội nông thôn trước
Cách Mạng. <...>. Đó chính là giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm.
Ví dụ 3( kết bài) : “ Nghệ thuật không phải là sự giải phẫu cơ thể nhưng là

sự giải phẫu đời sống nội tâm của con người” ( Lê Ngọc Trà). Và Nam Cao đã
làm tròn thiên chức nghệ sĩ, đúng chức năng văn học khi khai thác sâu tấn bi
kịch tâm hồn đau đớn của người nông dân- bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.
Tác phẩm của ông vì thế vừa mang giá trị hiện thực sâu sắc, vừa mang giá trị
nhân văn độc đáo, mới mẻ. Nam Cao đã đưa “ Chí Phèo” trở thành một kiệt tác
nghệ thuật và “ Nghệ thuật một khi đạt đến đỉnh cao có thể thiêu cháy cả rừng
12

cây, làm khô cạn dòng suối, làm nhũn đi từng ý nghĩ, mê hoặc cả gỗ đá vô tri”
( Tạ Ty)
5.3: Chuyển luận điểm

Trong bài làm của mình, HS thường yếu ở khâu chuyển luận điểm. Có nhiều
cách chuyển luận điểm, tôi thường hướng dẫn HS chuyển luận điểm bằng việc
vận dụng kiến thức LLVH. Việc làm này giúp HS hình thành 2 ý thức: Phải có
chuyển luận điểm và chuyển bằng kiến thức LLVH. Và chắc chắn đấy là những
đoạn chuyển luận điểm ấn tượng.
Ví dụ 1: Nhưng “ thơ là tiếng lòng” (Diệp Tiếp). Thơ là hiện thực tâm trạng,
là nỗi lòng của một ai đó cất lên trong một hoàn cảnh nào đó. “Đây thôn Vĩ Dạ”
là tiếng lòng của Hàn Mặc Tử khi hướng về cảnh và người thôn Vĩ. Vì thế, câu
thơ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” chính là lời hỏi của thi nhân, là sự phân
thân của chủ thể trữ tình <...>
Ví dụ 2: Khi chuyển sang luận điểm: Tiếng nói nhân đạo không dừng ở sức
đồng cảm tố cáo mà chứa đựng những giá trị riêng hết sức sâu sắc, mới mẻ (Khi

phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao), tôi hướng
dẫn HS chuyển bằng một câu nói chứa đựng kiến thức LLVH: “Một nhà nghệ sĩ
chân chính phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tủy” (Sê Khốp) và Nam Cao đích
thực là nghệ sĩ của người nông dân khi ông “cúi mình xuống tận đáy” (Hugo) để
cứu vớt cuộc đời họ, đồng cảm xót thương cho họ và đặc biệt nâng niu, trân
trọng khát vọng sống mãnh liệt của người lao động.
V.

KIỂM NGHIỆM

Qua kinh nghiệm của bản thân, sau 4 năm tiến hành hướng dẫn HS vận dụng
kiến thức LLVH vào bài làm văn, tôi nhận thấy kết quả từng năm học rất khả

Xem thêm: Thái Nguyên Phát Triển Diện Tích Trồng Chè Ở Việt Nam Năm 2017

quan.
Đối với GV, thời gian đầu tư giáo án cần kĩ lưỡng và có sự chỉnh sửa theo
từng năm học. Cách thức tôi đưa ra kiến thức LLVH cho các em và hướng dẫn
các em đưa vào bài làm hợp lý đã giúp các em không còn ngại những kiến thức
LLVh khô khan, khó hiểu nữa.
Trong 4 năm qua, tôi đã trực tiếp áp dụng đề tài này lần lượt qua 3 lớp: 11T3
(Năm học 2012-2013); 12T3 (Năm học 2013-2014); 11T1 (Năm học 20122013); 12T1 (Năm học 2013-2014); 11C2 ( 2014-2015); 12C2 (Năm học 20152016). Kết quả thông qua các bài kiểm tra như sau:

13

Bảng số liệu 1: Lớp 11T3- 12T3- sĩ số 43

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Luận văn