tiểu luận về trẻ mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.01 KB, 35 trang )

Đang xem: Tiểu luận về trẻ mầm non

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA ——————-

BÁO CÁO

——————————

Sinh viên thực hiện:
Lớp:
Giáo viên hướng dẫn: Th.S.
Bộ môn:

NĂM 2017MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, có vai
trò quan trọng trong việc đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển nhân cách
con người. Vì thế chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non là một vấn đề đặc biệt quan trọng
trong chiến lược phát huy nhân tố con người của Đảng và nhà nước. Chiến lược này
cụ thể hóa trong xây dựng chương trình giáo dục mầm non.Trong đề án phát triển
giáo dục Mầm non giai đoạn 2006 – 2015, quan điểm trọng tâm là đẩy mạnh xã hội
hóa, tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách để mọi tổ chức, cá nhân và toàn xã
hội tham gia giáo dục quốc dân. Ở nhiều nước không chỉ ở những nước nghèo mà
ngay cả ở những nước giàu, để phát triển sự nghiệp giáo dục họ đã tìm nhiều biện
pháp để đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, trong đó có xã hội hóa giáo dục mầm non.
“Văn học dân gian là nguồn suối không cạn của văn học dân tộc, nguồn suối
trong sạch đó là ngọn nguồn của sự sáng tạo mà mỗi con người đều tìm về cội
nguồn đó” <5.1>. Đặc biệt, đồng dao là món ăn tinh thần không thể thiếu đối với trẻ

thơ. Trong cuộc sống cũng như trong chương trình giáo dục ở nhà trường mầm
non, những bài đồng dao thường được trẻ tiếp nhận một cách hào hứng, thích thú.
Trẻ thường hát xướng lên các bài đồng dao trong những lúc vui chơi, bản thân việc
“đọc” đồng dao cũng là một hình thức chơi, những trò chơi dân gian đó được nhiều
trẻ yêu thích. Qua đó đồng dao góp phần phát triển thể chất, cung cấp và trau dồi
những kiến thức về thế giới xung quanh, nuôi dưỡng nhân cách trẻ, mở ra cho trẻ
một chân trời nghệ thuật ngôn từ, đem đến những xúc cảm, tình cảm thẩm mỹ tốt
đẹp. Đối với trẻ mầm non, đồng dao có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và
phát triển nhân cách. Ngay từ thuở lọt lòng các trẻ đã được nghe những tiếng hát
ru ầu ơ của bà, mẹ và những người thân xung quanh. Rời khỏi lòng mẹ, đứa trẻ theo
anh, theo chị bước sang một môi trường văn hóa khác mang tính chất cộng đồng,
cùng chơi cùng hát những khúc đồng dao. Lúc này những khúc đồng dao có thể coi
như một sự tiếp nối những khúc hát ru để gắn bó đứa trẻ với gia đình, làng xóm,
quê hương, bạn bè. Nếu trước đây đứa trẻ chỉ biết tiếp nhận tiếng hát ru của mẹ
một cách thụ động thì nay đã có thể chủ động tìm trò để chơi, tìm câu để hát và
bước đầu làm quen với sinh hoạt văn hóa mang tính cộng đồng. Có thể nói những
bài đồng dao là dòng sữa ngọt ngào thấm vào nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ. Từ đó,
giáo dục trẻ biết yêu cái đẹp, yêu quê hương, yêu cuộc sống của mình. Nhà sư phạm
Xukhômlinski đã tổng kết: “Tuổi thơ không thể thiếu âm nhạc cũng không thể thiếu
trò chơi và truyện cổ tích. Thiếu những cái đó trẻ em chỉ là những bông hoa khô
héo”<13.7>. Tuy nhiên, cũng cần nhận thức đúng đắn một thực tiễn rằng: hiện nay,
cuộc sống phát triển theo hướng hiện đại hoá mạnh mẽ đã tác động không nhỏ đến
nhu cầu vui chơi, giải trí, nhu cầu thưởng thức văn học, âm nhạc của trẻ. Phần lớn
Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh
Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 3

trẻ được tiếp xúc với những phương tiện, thiết bị học, chơi hiện đại, tiện lợi và trở

nên say mê chúng. Đối với các em, những câu chuyện cổ tích, những bài đồng dao,
những trò chơi dân gian đôi khi nhạt dần tính hấp dẫn. Câu hỏi đặt ra cho các nhà
giáo dục và các bậc cha mẹ là làm thế nào để lưu lại trong tâm hồn trẻ những nét
đẹp, những giá trị độc đáo của bản sắc văn hoá dân tộc?; làm thế nào để cuốn hút
trẻ tham gia vào việc giao tiếp trong môi trường của văn hoá, văn học dân gian để
các em biết và yêu một nền nghệ thuật dân tộc? Vấn đề mang tính tầm vóc nhưng
không phải chỉ được giải quyết trên tầm vĩ mô. Nó bắt đầu từ chính những việc cụ
thể, thiết yếu nhất. Chẳng hạn, dạy cho trẻ biết đọc, biết hát đồng dao, biết chơi và
yêu thích các trò chơi dân gian. Chính vì những lý do trên mà việc đưa các tác phẩm
đồng dao vào chương trình giáo dục mầm non và quan tâm đến các phương pháp
dạy đồng dao cho trẻ là hết sức cần thiết.
Lứa tuổi mẫu giáo lớn là lứa tuổi cuối cùng của tuổi mẫu giáo, là giai đoạn then
chốt để trẻ tới trường phổ thông, là bước ngoạt của cuộc đời trẻ. Vì thế cần chuẩn
bị tốt các mặt tâm lí để trẻ sẵn sàng đi học trong đó ngôn ngữ là thành phần cốt
yếu. Khi sử dụng ngôn ngữ, các từ ngữ chỉ có giá trị khi nó có chứa đựng nội dung,
bởi vậy việc cung cấp cho trẻ hiểu nội dung của từ là điều cần thiết. Việc dạy trẻ
nhằm tăng số lượng từ trong các trường nghĩa để có điều kiện lựa chọn là việc hết
sức cần thiết. Nếu vốn từ ít thì khả năng lựa chọn sẽ bị hạn hẹp và hiệu quả dùng từ
sẽ giảm, số lượng từ đó cũng chưa đủ để trẻ thể hiện được chính xác những nội
dung phức tạp, tinh tế mà cuộc sống đòi hỏi. Chính vì vậy cần có kế hoạch để vừa
làm tăng chất lượng sử dụng từ vừa mở rộng vốn từ cho trẻ. Xuất phát từ những lí
do trên, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài: “Biện pháp làm giàu vốn từ cho trẻ mẫu
giáo lớn thông qua các bài đồng dao” nhằm tìm hiểu vai trò vị trí quan trọng của
đồng dao đối với việc làm giàu vốn từ cho trẻ ở độ tuổi mẫu giáo lớn; từ đó đề xuất
một số biện pháp cơ bản làm giàu vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn qua các bài đồng
dao.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Qua quá trình tìm hiểu về sự tác động của đồng dao trong việc làm giàu vốn từ
cho trẻ mẫu giáo lớn và xây dựng một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ mẫu
giáo lớn thông qua các bài đồng dao tôi đã tiếp cận với một số công trình nghiên

cứu trong cũng như ngoài nước. Ở những công trình này, theo những mục đích
nghiên cứu khác nhau, chúng tôi nhận thấy các tác giả chủ yếu quan tâm đến
những vấn đề khái quát về đồng dao hoặc vai trò của ca đồng dao đối với đời sống
tinh thần của trẻ em chứ chưa đi sâu nghiên cứu tác động đặc biệt của đồng dao đối
với việc phát triển vốn từ ở trẻ lứa tuổi mầm non, từ đó đưa ra các biện pháp cụ thể
để phát triển vốn từ cho trẻ thông qua các bài đồng dao.
Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh
Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 4

Ngôn ngữ là tài sản quý báu của văn minh nhân loại. Ngôn ngữ là điểm mốc
then chốt giúp cho nhiều công trình nghiên cứu được tỏa sáng. Không những vậy
ngôn ngữ có sức hút mạnh mẽ, lôi cuốn sự tham gia nghiên cứu của rất nhiều nhà
khoa học, từ những lĩnh vực khác nhau: Triết học, tâm lí học, ngôn ngữ học, giáo
dục học, xã hội học,…Vai trò phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ lâu được các nhà khoa
học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Có thể kể đến các tác giả như:
Borodis.A.M với cuốn: Phương pháp phát triển tiếng cho trẻ em (NXBGD Matxcơva 1974) Xôkhin với tác phẩm: Phương pháp phát triển lời nói trẻ em (NXBGD
Matxcơva – 1979) E.Ti.Khêiva với tác phẩm: Phát triển ngôn ngữ trẻ em (NXBGD 1997). Các tác giả: Phedorenco.L.P, Phomitreva.G.A, Lomarep.V.K cũng có những
cuốn sách tương tự.
Ngay từ những năm 80 của thế kỉ trước, chúng ta đã có những cuốn giáo trình
đầu tiên về phương pháp phát triển lời nói trẻ em trong các trường đào tạo giáo
viên mầm non: Phan Thiều với cuốn: Dạy nói cho trẻ trước tuổi cấp 1 (NXBGD 1973). Hay nghiên cứu của Nguyễn Xuân Khoa (1997) về: Phương pháp phát triển
ngôn ngữ cho trẻ Mẫu giáo (0 – 6 tuổi). Các tác phẩm trên đều đề cập đến nội dung
và các phương pháp nhằm hình thành và phát triển vốn từ ngữ cho trẻ. Đây chính
là cơ sở, là tiền đề cho các nhà khoa học sau này nghiên cứu, tìm tòi, khám phá về
vấn đề ngôn ngữ của trẻ. Về đồng dao, một số công trình nghiên cứu từ việc sưu tầm
tư liệu đồng dao dành cho trẻ em đã đi vào nghiên cứu ý nghĩa giáo dục của thể loại
này đối với trẻ em như cuốn Đồng dao và trò chơi trẻ em người Việt Nam của

Nguyễn Thúy Loan, Trò chơi dân gian cho trẻ em dưới 6 tuổi của Trương Kim Oanh,
Lời đồng dao trong trò chơi cổ truyền của trẻ em của Phan Đăng Nhật (1992). Các
công trình này đều đi đến kết luận đồng dao có vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ em. Trong bài Ca dao và viết cho
thiếu nhi tác giả Trần Đức Ngôn, Dương Thu Hương đã khẳng định: “Ca dao là đại
bộ phận dành cho người lớn tuy nhiên tác giả dân gian khi sáng tác ca dao vẫn
không quên trách nhiệm đối với thế hệ trẻ nên đã dành trọn một phần ca dao cho
các em được gọi là đồng dao” <8.76>. Cuốn Đồng dao với tuổi thơ tác giả đã đề cập
đến chức năng giáo dục của đồng dao với trẻ em “Đồng dao có tác dụng mạnh đối
với trẻ em trước hết là nó giáo dục thái độ văn hóa đối với hai mối quan hệ chủ yếu
của con người đó là con người với thiên nhiên và con người với xã hội”. Đây là
những vấn đề hết sức quan trọng đối với sự hình thành, phát triển nhân cách con
người <11.122,123>. Qua khảo cứu các bài viết, các công trình nghiên cứu có liên
quan đến đề tài chúng tôi đã nhận thấy như sau: Các công trình nghiên cứu đã đánh
giá căn bản về vai trò của đồng dao đối với trẻ em. Những đánh giá này cho thấy sự
cần thiết đưa các bài đồng dao có giá trị vào chương trình giáo dục trẻ ngay từ bậc
học mầm non. Tuy nhiên chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu riêng về phương
pháp làm giàu vốn từ cho trẻ mầm non thông qua các bài đồng dao. Nhận ra
Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh
Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 5

khoảng trống đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: Biện pháp làm giàu vốn từ
cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua các bài đồng dao với các chủ điểm ở trường mầm
non.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận của các môn khoa học liên quan đến đề tài: Tâm lý học, Giáo
dục học, Văn học… và xuất phát từ tình hình thực tế về việc dạy đồng dao cho trẻ

mầm non chúng tôi tiến hành nghiên cứu và xây dựng biện pháp làm giàu vốn từ
cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua các bài đồng dao.
4. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp làm giàu vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua các bài đồng dao
5. Giả thuyết khoa học
Trên thực tế, đồng dao chưa đươc chú trọng đúng mức và giảng dạy đúng
hướng, sáng tạo để giúp trẻ mẫu giáo lớn làm giàu vốn từ, tiếp nhận một cách có
hiệu quả loại văn học dân gian này.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu một số cơ sở lí luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Xây dựng một số biện pháp nhằm nâng cao vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua
các bài đồng dao.
7. Phạm vi nghiên cứu
Do điều kiện phạm vi nghiên cứu có hạn và khuôn khổ đề tài, tôi chỉ tiến hành
nghiên cứu các biện pháp làm giúp trẻ mẫu giáo lớn làm giàu vốn từ thông qua các
bà đồng dao.
8. Phương pháp nghiên cứu
8.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu tài liệu liên quan đến đề tài, hệ thống hóa các vấn đề khái quát
trong tài liệu để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
8.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
8.2.1. Phương pháp quan sát.
8.2.2. Phỏng vấn, trao đổi với giáo viên, học sinh.
9. Đóng góp của đề tài
Sự thành công của đề tài sẽ bổ sung một số biện pháp làm giàu vốn từ cho trẻ
mẫu giáo lớn thông qua các bài đồng dao.
Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh
Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 6

10. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo nội dung của khóa
luận gồm ba chương:

Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh
Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 7

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Cơ sở tâm lý học
Nhân cách hình thành trong suốt thời kỳ ấu thơ và niên thiếu của con người.
Trong đó, với điều kiện phát triển bình thường thì bước vào năm tuổi thứ ba ý thức
bản ngã bắt đầu nảy sinh và đến đầu tuổi thanh niên thì nhân cách của con người
cơ bản được hình thành. Giai đoạn đầu tiên của quá trình hình thành nhân cách con
người là giai đoạn hình thành nhân cách của trẻ mẫu giáo.
Ở độ tuổi mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi), nhân cách của trẻ tiếp tục hình thành và
phát triển mạnh mẽ với những đặc điểm nổi bật sau: Ý thức bản ngã được xác định
rõ ràng để giúp trẻ điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với chuẩn mực của qui
tắc xã hội. Đồng thời, ý thức bản ngã còn cho phép trẻ thực hiện các hoạt động một
cách chủ quan. Nhờ đó, quá trình tâm lý mang tính chủ động rõ rệt. Cuối tuổi mẫu
giáo, ngôn ngữ của trẻ có tốc độ phát triển nhanh về số lượng và chất lượng. Ngôn
ngữ phát triển giúp trẻ biết tự giác hướng sự chú ý của mình vào đối tượng nhất
định. Cho nên, mỗi một đối tượng được tiếp nhận trong thời kỳ này đều có tác động
sâu sắc đối với sự phát triển nhân cách và trí tuệ của trẻ.

Sức tưởng tượng, khả năng ghi nhớ của trẻ mẫu giáo lớn ngày càng có tính chủ
định so với trẻ ở lứa tuổi nhỏ hơn. Trong sự phát triển các hoạt động ý chí của trẻ
mẫu giáo lớn có thể thấy được liên kết chặt chẽ giữa ba mặt: thứ nhất là sự phát
triển tính mục đích của hành động, thứ hai là sự xác lập mối quan hệ giữa hành
động và động cơ, thứ ba là tăng vai trò điều chỉnh của ngôn ngữ trong việc thực
hiện hành động.
Giai đoạn mẫu giáo lớn là giai
đoạn cuối cùng của trẻ lứa tuổi mầm non. Ở giai đoạn này những cấu tạo tâm lý
đặc trưng của con người được hình thành ở giai đoạn trước vẫn tiếp tục được phát
triển mạnh. Với sự giáo dục của người lớn, những chức năng tâm lý đó sẽ được
hoàn thiện một cách tốt đẹp về mọi phương diện hoạt động tâm lý (nhận thức, tình
cảm, ý chí), để hình thành việc xây dựng cơ sở nhân cách ban đầu của con người.
Tóm lại, lứa tuổi mầm non, nhất là độ tuổi mẫu giáo lớn là lứa tuổi rất nhạy cảm
với cái đẹp và luôn khao khát được tiếp xúc, khám phá cái đẹp phong phú, đa dạng
trong cuộc sống. Đồng dao là một thể loại văn học dân gian có khả năng đáp ứng
nhu cầu này của trẻ. Tuy nhiên, trẻ lứa tuổi mầm non thường hát xướng lên các bài
đồng dao trong những lúc vui chơi đơn thuần chỉ để giải trí, mà chưa phát huy hết
được vai trò to lớn của chúng trong việc phát triển ngôn ngữ đặc biệt là việc làm
giàu vốn từ. Có nhiều trẻ hát, đọc các bài đồng dao thuộc lòng mà không hiểu nội
dung ý nghĩa của các từ ngữ trong các bài đồng dao đó. Chính vì vậy, các cô giáo
Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh
Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 8

mầm non đều cần phải hiểu những đặc điểm tâm lý rất cơ bản của trẻ, có như thế
thì mới có thể phát huy được sức mạnh của văn học nói chung, đồng dao nói riêng
trong việc giáo dục trẻ thơ.
1.1.2. Văn học đối với giáo dục trẻ mầm non

1.1.2.1. Đặc điểm tiếp nhận văn học của trẻ mầm non
Tiếp nhận văn học gián tiếp: Ở lứa tuổi mẫu giáo lớn, trẻ chưa biết đọc mà mới
chỉ dừng lại ở việc nhận biết chữ cái và tập ghép chữ thành tiếng nên việc cảm thụ
tác phẩm văn học chủ yếu qua khâu trung gian là cô giáo. Với tư cách là người đọc
trực tiếp rồi đọc, kể lại cho trẻ nghe, cô giáo là người giúp trẻ tiếp cận với tác phẩm,
hiểu nội dung, ý nghĩa của tác phẩm, có những ấn tượng sâu đậm về thế giới nghệ
thuật của tác phẩm văn học.
Cảm nhận văn học mang đậm màu sắc xúc cảm: Tuổi mẫu giáo là thời kỳ nhạy
cảm với những “cái đẹp”. Có thể coi đây là thời kỳ phát triển đầy mới mẻ và mạnh
mẽ của những xúc cảm thẩm mỹ đối với thế giới xung quanh. Khác với người lớn, sự
tiếp nhận văn học vừa mang tính cảm xúc vừa chịu sự chi phối của lí tính, trẻ em
tiếp nhận văn học hoàn toàn cảm tính. Khi nghe cô giáo đọc thơ hay kể chuyện trẻ
tập trung cao độ vào giọng đọc, kể cũng như cử chỉ, nét mặt, cảm xúc của cô giáo
rồi dần biến thành cảm xúc của mình. Trẻ thích thú với những câu chuyện vui, xúc
động với những câu chuyện buồn. Trẻ cũng nhăn mặt khi nghe kể về những nhân
vật độc ác, mỉm cười khi nghe kể về những nhân vật ngốc nghếch, có những hành
động hài hước; có khi trầm tư suy nghĩ, lo âu, hồi hộp muốn biết tình huống tiếp
theo
xảy
ra
như
thế
nào.
Tiếp nhận văn học ít bị ràng buộc bởi lý trí và kinh nghiệm mà chứa đựng khả năng
tưởng tượng mạnh mẽ: “Đối với trẻ em, những gì làm xúc động mạnh mẽ là phương
tiện duy nhất để làm cho trí tưởng tượng và tính nhạy cảm phải hoạt động ” <1.14>.
Giàu tưởng tượng là thuộc tính của trí tuệ, gắn liền với năng lực hiểu biết của trẻ.
Trong quá trình quan sát trẻ hấp thụ những ấn tượng từ thực tại, cải biến chúng và
tạo ra một cách hiểu, cách cảm thụ đầy đủ và sâu sắc hơn trong nhận thức của
mình. Trí tưởng tượng được trẻ vận dụng trong tiếp nhận văn học là để đi sâu, mở

rộng và thanh lọc đời sống cảm xúc của mình, nhận ra cái mới trong mối quan hệ
tưởng như khó gắn kết lại. Qua đó làm nảy sinh khát vọng và khả năng sáng tạo
của trẻ khi tiếp xúc tác phẩm văn học.
Cảm nhận văn học ngây thơ và triệt để: Tiếp nhận ngây thơ đối với tác phẩm
văn học vì trẻ còn rất ít vốn kiến thức khoa học cũng như kinh nghiệm thực tiễn.
Nên những gì được nói đến trong trang sách đều được trẻ tin tưởng tuyệt đối. Trẻ
cũng tiếp nhận triệt để tác phẩm văn học vì trong chương trình giáo dục mầm non
văn học và âm nhạc là những bộ môn được đưa vào sớm nhất để giáo dục trẻ. Nên
Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh
Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 9

lượng tri thức có trong các tác phẩm văn học được lựa chọn giới thiệu cho trẻ được
trẻ tiếp nhận một cách triệt để nhằm hình thành và phát triển trí tuệ, tâm hồn, tình
cảm…
1.1.2.2. Văn học đối với giáo dục trẻ mầm non
Nhu cầu thưởng thức văn học của trẻ mầm non: Ngay từ thưở ấu thơ, trẻ em đã
được tiếp xúc với văn học, qua lời hát ru của bà, của mẹ, qua những câu chuyện kể
về thế giới thần tiên, qua những vần thơ chứa bao điều kì diệu về cuộc sống xung
quanh… Rất tự nhiên, văn học thấm sâu vào tâm hồn các em. Và nghe hát ru, nghe
kể chuyện, đọc thơ trở thành một trong những nhu cầu cần thiết đối với cuộc sống
của trẻ. Khi trẻ đến trường, việc giới thiệu văn học cho trẻ được nâng lên một vị trí
cao hơn, với một mục tiêu rõ ràng và phương pháp bài bản hơn. Điều đó càng khiến
cho văn học trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu của trẻ.
Văn học đối với việc giáo dục trẻ mầm non: Trong số các loại hình nghệ thuật,
văn học là loại hình nghệ thuật đặc biệt, có vai trò to lớn không gì thay thế được
trong việc hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ em. Nhà phê bình
văn học Nga V.G.Bielinxki từng nói: “Một tác phẩm viết cho thiếu nhi là để giáo dục

mà giáo dục là một sự nghiệp vĩ đại vì nói quyết định số phận con người” <15.79>. Là
loại hình nghệ thuật ngôn từ, văn học có khả năng đi vào lòng người một cách tự
nhiên và sâu sắc. Đối với trẻ em, văn học nói chung, các tác phẩm văn học thiếu nhi
nói riêng càng có khả năng tác động trực tiếp, sâu sắc tới đời sống tâm hồn của trẻ.
Việc cho trẻ em lứa tuổi mầm non làm quen với tác phẩm văn học từ lâu đã được
đặt ra như một nội dung vô cùng quan trọng trong chương trình giáo dục mầm
non. Văn học đóng vai trò là phương tiện, đồng thời cũng mang các nội dung nhằm:
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non: Phát triển ngôn ngữ là nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu trong giáo dục mầm non, đặc biệt là giáo dục mẫu giáo.
Bởi lẽ ngôn ngữ gắn liền với tư duy, nếu trẻ không được trang bị một vốn ngôn
ngữ nhất định, trẻ không thể tăng cường, rèn luyện khả năng tư duy khoa học,
chuẩn bị cho việc theo học ở trường phổ thông sau này. Các sáng tác văn học có vai
trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển và làm phong phú ngôn ngữ cho trẻ.
Bằng các hình tượng nghệ thuật, văn học mở ra và giải thích cho trẻ cuộc sống xã
hội và thiên nhiên, thế giới tình cảm và các quan hệ qua lại của con người. Nó làm
phong phú những xúc cảm, phát triển trí tưởng tượng và đưa đến cho trẻ những
hình tượng tuyệt diệu của ngôn ngữ dân tộc. Đồng thời, vốn ngôn ngữ được sử
dụng một cách nghệ thuật trong các tác phẩm cũng giúp trẻ thành thạo các phát
âm, mở rộng vốn từ, đặc biệt là từ ngữ sử dụng theo phong cách nghệ thuật; giúp
trẻ phát triển lời nói mạch lạc, nâng cao khả năng diễn đạt (diễn đạt vấn đề một
cách sinh động, giàu hình ảnh, giàu tính tạo hình và tính biểu cảm). Phát triển nhận
thức cho trẻ mầm non: Cũng như hầu hết các nội dung giáo dục khác trong chương
Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh
Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 10

trình giáo dục mầm non, phát triển nhận thức cho trẻ có vị trí hết sức quan trọng và
cần thiết. Mục tiêu mở rộng và nâng cao nhận thức cho trẻ mầm non được thực

hiện thông qua nhiều hoạt động khác nhau. Hoạt động cho trẻ làm quen với tác
phẩm văn học là một hoạt động hữu hiệu giúp trẻ mở rộng, nâng cao nhận thức về
cuộc sống xung quanh. Những bài thơ, những câu chuyện đã giúp các trẻ mở rộng
tầm nhìn và sự hiểu biết về thế giới tự nhiên, thế giới động vật, thực vật…; giúp trẻ
biết được tên gọi, những đặc tính, những quan hệ và những ý nghĩa của chúng đối
với con người; giúp trẻ hiểu biết về cuộc sống của con người và những điều cơ bản
trong mối quan hệ giữa con người với con người… Có thể nói, với chức năng phản
ánh cuộc sống, văn học thiếu nhi như “những cuốn sách giáo khoa” đầu tiên giúp trẻ
nhận thức và hiểu biết về thế giới xung quanh.
Phát triển thẩm mỹ cho trẻ mầm non: Văn học luôn đem đến cho trẻ những hình
ảnh đẹp đẽ, tươi sáng; gợi mở trong các em những xúc cảm thẩm mỹ tốt đẹp, hình
thành thị hiếu thẩm mỹ đúng đắn. Tiếp xúc với tác phẩm văn học là các em được
tiếp xúc với cả một thế giới bao la đầy âm thanh và màu sắc với những hình ảnh
đẹp đẽ, sinh động, muôn màu muôn vẻ của thiên nhiên và cuộc sống. Trẻ em lứa tuổi
mầm non có một đời sống tâm hồn ngây thơ, chưa có những trải nghiệm cá nhân,
sự nhận thức về thế giới xung quanh chủ yếu dừng ở mức cảm tính, gắn với cái cụ
thể trước mắt. Chính vì thế, vẻ đẹp lấp lánh của ngôn từ nghệ thuật và sức tưởng
tượng phong phú của các nhà văn trong tác phẩm văn chương là cơ sở để khơi gợi
trong tâm hồn các em những rung cảm thẩm mỹ đẹp đẽ và sâu sắc.
Phát triển tình cảm xã hội cho trẻ mầm non: Trẻ thơ rất nhạy cảm, dễ rung
động. Các em chủ yếu sống và cư xử với tất cả các đối tượng xung quanh bằng tình
cảm. Đặc biệt, trẻ khác với người lớn ở chỗ thường bộc lộ thái độ trước một hiện
tượng, một sự việc trong cuộc sống một cách rõ ràng: yêu – ghét, vui – buồn, thích không thích… Vì vậy, giáo dục lòng nhân ái cho con người hữu hiệu nhất là bắt đầu
giáo dục lòng nhân ái cho trẻ thơ. Một trong những phương tiện giáo dục đạo đức
cho trẻ có giá trị độc đáo là văn học. Những bài học đạo đức, nhân văn được gửi
gắm trong thế giới hình tượng nghệ thuật của tác phẩm sẽ tác động một cách tự
nhiên mà sâu sắc đến tình cảm của trẻ. Một tấm gương về lòng hiếu thảo, về tình
yêu thương và ý thức trách nhiệm đối với người thân, đối với mọi người xung
quanh sẽ cho các bé bài học quý giá về nhân cách làm người. Từ đó hình thành ở trẻ
một đời sống tình cảm phong phú, nhạy bén, tinh tế.

Phát triển thể chất cho trẻ mầm non: Văn học ngoài chức năng phục vụ nhu cầu
học tập của các em, còn là yếu tố hữu cơ của các trò chơi sinh hoạt, đưa trẻ vào thế
giới của trò chơi nhẹ nhàng, có nhịp điệu làm cho trò chơi trở nên hấp dẫn. Từ đó
phát triển ở trẻ thể chất khỏe mạnh, linh hoạt. Khi trẻ chơi chính là lúc các vận
động cơ được phát triển, khả năng tai nghe cũng được vận dụng linh hoạt gợi ra
Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh
Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 11

những phản ứng vận động của cơ thể (thay đổi nhịp tim mạch, sự tuần hoàn máu,
hô hấp và dãn nở cơ). Trong khi chơi, trẻ không những phối hợp các động tác đi lại
vững vàng chạy nhảy nô đùa mà còn có những động tác khó: Lộn cầu vồng, nhảy lò
cò… Nhưng trẻ vẫn kết hợp tay chân một cách nhịp nhàng.
Qua văn học trẻ không chỉ được học một cách thuần túy mà còn được chơi được
vận động, kết hợp nhịp nhàng giữa chân và tay. Vì thế sự định hướng trong không
gian, sự lôgic ngôn ngữ bên trong với động tác bên ngoài càng hoàn thiện, giúp trẻ
phát triển cân đối hài hòa, có đủ sức khỏe, là yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển trí
tuệ của trẻ.
1.1.3. Đồng dao đối với việc giáo dục trẻ mầm non
1.1.3.1. Một số vấn đề chung về đồng dao
Gắn liền với những kỉ niệm sâu sắc về thời thơ ấu của mỗi người dân Việt Nam
không chỉ có những bài hát ru, mà còn có những bài hát do chính các em hát. Đó là
những bài “hát vui chơi”. Nội dung những bài hát vui chơi là những nhận xét,
những ý nghĩa và cảm xúc ngây thơ về thế giới tự nhiên, về đời sống con người và
đời sống xã hội:
1.
Trời mưa,
Quả dưa vẹo vọ,

Con ốc nằm co,
Con tôm đánh đáo
Con cò kiếm ăn.
2.
Con mèo mà trèo cay cau,
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà.
Chú chuột đi chợ đường xa,
Mua mắm mua muối giỗ cha con mèo.
Những bài hát vui chơi của trẻ em có khi gắn liền với những trò chơi nhất định,
cho nên trong những trường hợp ấy còn gọi là những “bài hát trò chơi”. Những bài
hát trò chơi, hay những “trò chơi có bài hát” là một sinh hoạt của các em. Cho nên
đây là một trong những bộ phận tại thành cái mà chúng ta gọi là “văn học dân gian
thiếu nhi”.

Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh
Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 12

1.1.3.2. Đồng dao đối với việc giáo dục trẻ mầm non
Đồng dao là những câu vè, ngắn gọn có vần điệu nhịp điệu được trẻ con thích
và hát trong khi chơi, trong sinh hoạt cộng đồng <13.30>.
Ngày xưa ở trong các gia đình đứa con từ lọt lòng đến 3 tuổi được trực tiếp
hưởng thụ tiếng hát ru khi nằm trong lòng mẹ nhưng từ 3 tuổi trở đi phần lớn đứa
con không còn trực tiếp hưởng thụ tiếng hát ru, lời nói nựng của mẹ nữa. Rời khỏi
lòng mẹ, đứa trẻ theo anh, theo chị bước sang một môi trường văn hóa khác mang
tính chất cộng đồng, cùng chơi cùng hát những khúc đồng dao. Lúc này những khúc
đồng dao có thể coi như một sự nối tiếp những khúc hát ru để gắn bó đứa trẻ với
gia đình, làng xóm, quê hương, bạn bè. Nếu trước đây đứa trẻ tiếp nhận tiếng hát ru

của mẹ một cách thụ động thì nay đã có thể chủ động tìm trò để chơi, tìm câu để hát
và bước đầu làm quen với sinh hoạt văn hóa mang tính chất cộng đồng, cùng chơi
cùng hát những khúc đồng dao. Lúc này những khúc đồng dao có thể coi như một
sự nối tiếp những khúc hát ru để gắn bó đứa trẻ với gia đình, làng xóm, quê hương,
bạn bè. Nếu trước đây đứa trẻ tiếp nhận tiếng hát ru của mẹ một cách thụ động thì
nay đã có thể chủ động tìm trò để chơi, tìm câu để hát và bước đầu làm quen với
sinh
hoạt
văn
hóa
mang
tính
cộng
đồng.
Đặc điểm của đồng dao:
Đặc điểm của đồng dao dễ nhận ra trước tiên là có vần điệu rõ ràng nên dễ
thuộc, dễ hát: “Mèo già ăn trộm / Mèo ốm phải đòn / Mèo con phải vạ / Con quạ đứt
cành / Đòn gánh có mấu / Củ ấu có sừng / Bánh chưng có lá / Con cá có vây”.
Những câu trong bài đồng dao thường lặp đi lặp lại theo chu kì một cách tự nhiên:
Bồ các là bác chim ri
Chim ri là dì sáo sậu
Sáo sậu là cậu sáo đen
em tu hú
Tu hú là chú bồ các.
Rồi lại: Bồ các là bác chim ri
(Quay đi quay lại nhiều lần)
Ngôn ngữ đồng dao nhiều khi kì quặc chắp vá một cách ngẫu nhiên:
Nu na nu nống
Cái cống nằm trong
Con ong nằm ngoài

Củ khoai chấm mật
Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh
Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 13

Phật ngồi phật khóc
Con cóc nhảy ra…
– Lôgic của đồng dao là lôgic của trò chơi, không theo lôgic hiện thực, trái với
lôgic thực tế, đảo ngược với lôgic cuộc đời, nhiều khi không thể giải thích nổi:
Trời làm một trận mưa rào
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô
Thóc giống đuổi chuột trong bồ
Đong đong cân cấn đuổi bò ngoài ao…
hay:
Bao giờ cho đến tháng ba
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng
Hùm nằm cho lợn liếm lông
Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi.
Những đặc điểm đó của đồng dao rất gần với đặc điểm của trò chơi. Do đó
người ta coi đồng dao như trò chơi, nó thể hiện đặc tính ngộ nghĩnh của trẻ nhỏ nên
được các em ưa thích.
Nội dung của đồng dao:
Tuy ý nghĩa của nhiều câu đồng dao có khi không rõ ràng, thậm chí vô nghĩa,
nhưng không phải vì thế mà đồng dao không có nội dung gì. Thực ra nội dung của
đồng dao rất phong phú, nó phản ánh nhiều mặt của cuộc sống mà chủ yếu là ở
nông thôn.
– Rất nhiền bài đồng dao phản ánh những hiện tượng trong thiên nhiên hết sức
phong phú giúp trẻ hiểu, gắn bó với môi trường xung quanh:

Mây kia sinh ở đằng đông
Mây hóa ra rồng mây hiện ra mưa
Có khi mây kéo như cờ
Mây phẳng như tờ mây lại kéo sang
Có khi mây đỏ mây vàng
Mây xanh mây tím ngổn ngang đầy trời.
hay:
Tiếng con chim ri gọi dì gọi cậu
Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh
Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 14

Tiếng con sáo sậu gọi cậu gọi cô
Tiếng con cồ cồ gọi cô gọi chú
Tiếng con tu hú gọi chú gọi dì
Mau mau tỉnh dậy mà đi ra đồng.
– Đồng dao phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người đầy xúc cảm
yêu thương, sâu nặng tình người, thường là thông qua thân phận của cái tôm cái
tép, con cò con vạc, cái bống cái bang, bằng con mắt nhân cách hóa của trẻ thơ.
Cái cò đi đón cơn mưa
Tối tăm mù mịt ai đưa cò về
Cò về thăm quán cùng quê
Thăm cha thăm mẹ, cò về thăm anh.
hay:
Cái bống là cái bống bang
Thổi cơm nấu nước cả nhà cùng ăn
Nhà bống có khách sang chơi
Cơm bưng nước rót cho vui lòng bà.

Chức năng của đồng dao:
– Dùng để ru trẻ em: Ru trẻ ngủ chủ yếu là nhiệm vụ của những người mẹ, người
bà, nhưng ở nông thôn những đứa trẻ là anh, là chị trong gia đình cũng có nhiệm vụ
ru em bé ngủ khi người lớn vắng nhà. Những lời đồng dao nghe rất ngô nghê,
nhưng với giai điệu hát ru, trẻ nhỏ cũng đưa em bé của mình vào giấc ngủ ngon
lành:
Cái ngủ mày ngủ cho lâu
Mẹ mày đi cấy ruộng sâu chưa về
Bắt được con trắm con trê
Buộc cổ lôi về cho cái ngủ ngon
hay:
Em tôi buồn ngủ buồn nghê
Con tằm đã chín con dê đã mùi
Con tằm để lại mà nuôi
Con dê đã mùi làm thịt em ăn
– Dùng trong khi chơi: Nhân dân ta có một kho tàng trò chơi dân gian hết sức
phong phú mà điều đặc biệt thú vị là phần lớn trò chơi đều đi kèm với lời đồng dao
Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh
Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 15

rất ngộ nghĩnh làm tăng thêm sự cuốn hút của trò chơi đối với trẻ em. Những trò
chơi đó được truyền tụng từ đời này sang đời khác cho đến ngày nay, như trò chơi
“Kéo cưa lừa xẻ”, “Chi chi chành chành”, “Rồng rắn lên mây”, “Trồng nụ trồng hoa”,
“Thả đỉa ba ba”…
Tác dụng của đồng dao đối với trẻ mầm non: Đồng dao có tác động giáo dục
mạnh mẽ đối với trẻ em, trước hết là nó giáo dục thái độ văn hóa đối với hai mối
quan hệ chủ yếu của con người: con người – thiên nhiên, con người – xã hội.

– Giáo dục tình yêu đối với thiên nhiên: Đồng dao gợi nên ở các em nhỏ tình yêu
hồn nhiên đối với cái ong cái kiến, con cò con vạc, con trâu con nghé; cây cỏ, chim
chóc qua các bài gọi nghé của trẻ mục đồng, qua những bài giới thiệu các loài chim
muông, hoa quả,…
– Giáo dục lòng nhân ái: Đồng dao gợi lên ở trẻ tình yêu đối với ông bà, cha mẹ,
bà con xóm làng; đồng cảm với những người có cảnh ngộ éo le, sẵn lòng giúp đỡ
những người nghèo khổ, tàn tật. Có thể nói là đồng dao là những bài học đạo đức
rất nhẹ nhàng mà hấp dẫn đối với các em nhỏ.
Nhưng nhiều hơn hết đồng dao với tính hài hước của nó đã mang lại cho trẻ em
những niềm vui sướng vô tư, nụ cười sảng khoái. Hơn nữa chính tính hài hước hóm
hỉnh của đồng dao đã bồi đắp cho trí tuệ của trẻ thêm thông minh, sắc sảo. Trẻ
không những tiếp nhận những điều hợp lí mà còn phát hiện ra những điều phi lí
không đúng với cuộc sống bình thường, trẻ biết tiếp nhận văn hóa không chỉ ở
những mệnh đề xuôi mà ngay cả ở ngững mệnh đề ngược với logic. Trong mớ bong
bong lộn xộn đó của sự vật mà lại biết lần ra chân lí thì mới thật là giỏi thật là tài.
– Đồng dao có giá trị rất to lớn trong đời sống văn hóa của trẻ em ngày xưa và
nó vẫn có thể còn nguyên giá trị đối với trẻ em chúng ta trong thời đại ngày nay,
nếu chúng ta biết thổi vào đó luồng gió mới của thời đại. Với tinh thần đó nhiều
nhạc sĩ đã phổ nhạc cho những khúc đồng dao cổ làm cho nó sống dậy một cách
sinh động hơn, mới mẻ hơn và hấp dẫn hơn.
1.1.4. Vai trò của đồng dao đối với việc làm giàu vốn từ cho trẻ mẫu giáo
lớn
Ngôn ngữ là kho tàng trí tuệ của loài người. Nó chứa đựng và làm sống dậy
những thành tựu do xã hội loài người xây dựng nên. Ngôn ngữ chính là cơ sở của
mọi sự suy nghĩ là công cụ của tư duy. Vốn từ ngữ cá nhân phản ánh năng lực tư
duy, năng lực trí tuệ của cá nhân đó. Nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới và
cả Việt Nam đã chứng minh lợi ích của việc can thiệp vào lứa tuổi mầm non là rất
to lớn và lâu dài. Có thể thấy ngôn ngữ của trẻ chủ yếu được phát triển bằng con
đường trực quan cụ thể, cảm giác và tri giác là quá trình đầu tiên của quá trình
Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh

Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 16

nhận thức. Sự nhận thức về sự vật càng phong phú thì số lượng từ ngữ ngày càng
dồi
dào

sâu
sắc.
Khi đứa trẻ đã lớn, nhận thức của trẻ phát triển. Trẻ không chỉ dừng lại ở những
nhận thức về sự vật hiện tượng gần gũi xung quanh trẻ mà còn muốn biết cả về
những điều trẻ không trực tiếp nhìn thấy, trẻ muốn biết về quá khứ, tương lai.
Muốn biết về công việc của người lớn, của cha mẹ, muốn hiểu về chú bộ đội, về Bác
Hồ kính yêu…
Khi đã có một vốn ngôn ngữ nhất
định, trẻ sử dụng ngôn ngữ để biểu đạt những hiểu biết, những suy nghĩ, những cảm
xúc của mình. Trẻ hiểu được lời chỉ dẫn của người lớn, của cô giáo thì các hoạt
động trí tuệ, các thao tác tư duy của trẻ được chính xác, kích thích trẻ tích cực hoạt
động, kích thích trẻ nói từ đó sự hiểu biết của trẻ ngày càng được nâng lên.
Trẻ dùng ngôn ngữ để đặt ra muôn vàn câu hỏi, yêu cầu, nguyện vọng, thể hiện
thái độ, tình cảm yêu, ghét… Biểu hiện bằng ngôn ngữ giúp cho nhận thức của trẻ
được củng cố sâu sắc hơn, tạo cho trẻ được sống trong môi trường có các hoạt
động giao tiếp, trên cơ sở đó nảy sinh nhiều suy nghĩ sáng tạo mới.
Mặt khác với những tri thức đơn giản gần gũi đồng dao gợi lên tình yêu hồn
nhiên của trẻ em đối với con ong, cái kiến, con cò, con vạc, con trâu, con nghé… Các
bài hát gọi mẹ gọi nghé của trẻ mục đồng, bài hát giới thiệu các loài chim muông,
hoa quả hoặc những sự vật xung quanh (đồ dùng để làm ruộng, đồ dùng trong nhà,
trong bếp…) vừa là đồng dao vừa là một kiểu bài hát trong trong trò chơi, các em

Xem thêm: mở file dbf bằng excel

theo lời hát mà chỉ ra sự vật. Những bài đồng dao trong trò chơi cung cấp cho trẻ
những kiến thức về xã hội. Trẻ tập đi mua bán, tập làm nhà cửa, tập cưỡi trâu, cưỡi
ngựa trong tưởng tượng. Có những bài hát chỉ về nghề nghiệp trong xã hội có phân
công và có cả những bài hát chế giễu những thói hư tật xấu. Nổi bật lên là những
chủ điểm về đồng áng và cày cấy, đối với em gái là kiến thức về nữ công gia chánh.
Trong khi chơi các em tiếp thu những điều hay lẽ phải, rèn luyện những thói quen
cần thiết cho cuộc sống hiện nay và sau này một cách tự nhiên và thoải mái. Chính
vì thế đồng dao với những đặc trưng vốn có của nó rất phù hợp với đặc điểm của
trẻ lứa tuổi mẫu giáo nói chung và mẫu giáo lớn nói riêng.
Đồng dao có vai trò quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ đặc biệt là làm
giàu vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn. Những bài đồng dao giúp mở rộng vốn từ cho trẻ
về môi trường tự nhiên (thế giới động vật, thế giới thực vật, các hiện tượng tự
nhiên), môi trường xã hội,… Thông qua đó giúp trẻ hiểu nghĩa của một số từ ngữ,
cách sử dụng chúng trong những hoàn cảnh khác nhau
Thực trạng nhận thức của giáo viên đối với việc làm giàu vốn từ cho trẻ thông
qua các bài đồng dao giảng dạy trong trường Mầm non, cho đối tượng trẻ mẫu giáo
lớn (5 – 6 tuổi)
Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh
Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 17

CHƯƠNG 2
BIỆN PHÁP LÀM GIÀU VỐN TỪ CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN THÔNG QUA
CÁC BÀI ĐỒNG DAO
2.1. Biện pháp sưu tầm các bài đồng dao
Sau đây tôi xin giới thiệu một số bài đồng dao theo một số chủ đề, chủ điểm
quan trọng trong chương trình giáo dục mầm non:
– Chủ đề Bản thân

1.
Bà còng đi chợ trời mưa
Cái tôm cái tép đi đưa bà còng
Đưa bà đến quãng đường đông
Đưa bà về tận ngõ trong nhà bà
Tiền bà trong túi rơi ra
Cái tôm nhặt được trả bà mua rau.
2.
Đi cầu đi quán
Đi bán lợn con
Đi mua cái xoong
Đem về đun nấu
Mua quả dưa hấu
Về biếu ông bà
Mua một con gà
Về cho ăn thóc
Mua lược chải tóc
Mua cặp cài đầu
Đi mau về mau
Kẻo trời sắp tối.
3.
Gánh gánh gồng gồng
Gánh sông gánh núi
Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh
Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 18

Gánh củi, gánh cành

Ta chạy cho nhanh
Về xây cái bếp
Nấu nồi cơm nếp
Chia ra năm phần
Một phần cho mẹ
Một phần cho cha
Một phần cho bà
Một phần cho chị
Một phần cho anh
Ta chạy cho nhanh
Về xây cái bếp.
– Chủ đề Thế giới động vật
1.
Con vỏi con voi
Cái vòi đi trước
Hai chân trước đi trước
Hai chân sau đi sau
Còn cái đuôi
Đi sau rốt
Tôi xin kể nốt
Cái chuyện con voi
2.
Rì rà rì rà
Đội nhà đi chơi
Đến khi tối trời
Úp nhà lên ngủ
Khi mặt trời mọc
Lại thò đầu ra.
Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh
Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 19

3.
Tu hú là chú bồ các
Bồ các là bác chim ri
Chim ri là dì sáo sậu
Sáo sậu là sáo đen
Sáo đen là em tu hú
Tu hú là chú bồ các.
– Chủ đề Thế giới thực vật
1.
Cây cam cây quýt
Cây mít cây hồng
Ta trồng ta ăn
Ai trồng thiếu
Thì trồng thêm.
2.
Ve vẻ vè ve
Nghe vè cây trái
Dây ở trên mây
Là trái đậu rồng
Có con thật đông
Là trái đu đủ
Chặt ra nhiều mủ
Là trái mít ướt
Hình tựa gà xướt
Vốn thiệt trái thơm
Cái đầu chơm bơm

Là trái bắp nấu
Hình thù xấu xấu
Là trái cà dê…
Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh
Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 20

3.
Lúa ngô là cô đậu nành
Đậu nành là anh dưa chuột
Dưa chuột là ruột dưa gang
Dưa gang là nàng dưa hấu
Dưa hấu là cậu lúa ngô
Lúa ngô là cô đậu nành
– Chủ đề Trường mầm non của bé
1.
Nu na nu nống
Cái bống nằm trong
Con ong nằm ngoài
Củ khoai chấm mật
Phật ngồi Phật khóc
Con cóc nhảy ra
Con gà ú ụ
Nhà mụ thổi xôi
Nhà tôi nấu chè
Tay xòe chân rụt.
2.
Kéo cưa lừa xẻ

Ông thợ nào khỏe
Về ăn cơm vua
Ông thợ nào thua
Về bú tí mẹ
3.
Dung dăng dung dẻ
Dắt trẻ đi chơi
Đến cổng nhà trời
Lạy cậu lạy mợ
Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh
Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 21

Cho cháu về quê
Cho dê đi học
Cho cóc ở nhà
Cho gà bới bếp
Xì xà xì xụp
Ngồi thụp xuống đây.
– Chủ đề Nghề nghiệp
1.
Rềnh rềnh ràng ràng
Ba gang chiếu trải
Xích lại cho gần
Một người hai chân
Hai người bốn chân
Ba người sáu chân
Bốn người tám chân

Chân gầy chân béo
Dệt vải cho bà
Vải hoa vải trắng
Đến mai trời nắng
Đem vải ra phơi
Đến mốt đẹp trời
Đem ra may áo
Rềnh rềnh ràng ràng.
2.
Mười ngón tay
Ngón đi cày
Ngón tát nước
Ngón cầm lược
Ngón chải đầu
Ngón đi trâu
Ngón đi cấy
Ngón cầm lẫy
Ngón đánh cò
Ngón chèo đò
Ngón dò biển
Tôi ngồi tôi đếm
Mười ngón tay
Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh
Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 22

3.
Một tay đẹp

Hai tay đẹp
Ba tay đẹp
Tay dệt vải
Tay vãi rau
Tay buông câu
Tay chặt củi
Tay đắp núi
Tay đào sông
Tay cạo lông
Tay mổ lợn
Tay bắt vượn
Tay bắt voi
Tay bẻ roi
Tay đánh hổ.

– Chủ đề Quê hương đất nước, Hiện tượng tự nhiên
1.
Thứ nhất là nắng tháng ba
Tháng tư có nắng nhưng mà nắng non
Tháng năm nắng đẹp nắng giòn
Tháng sáu có nắng bóng tròn về trưa…
2.
Sao hôm lóng lánh
Sao mai lóng lánh
Cuốc đã sang canh
Gà kia gáy rạng…
2.2. Biện pháp đọc diễn cảm đồng dao kết hợp với đàm thoại, giảng giải
nội dung
Đọc diễn cảm đồng dao là một biện pháp tích cực hóa vốn từ của trẻ. Khi cô
giáo hướng dẫn trẻ tự đọc diễn cảm bài đồng dao, trẻ sẽ gọi tên, kể ra các đặc điểm

của các loại hoa quả, con vật và đó là điều kiện để các từ ngữ ở trạng thái bị động
chuyển thành chủ động, tích cực. Sau khi hướng dẫn trẻ đọc diễn cảm bài đồng dao
cô cần đàm thoại, giảng giải để giúp trẻ hiểu được nội dung của bài đồng dao.
Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh
Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 23

Đàm thoại là phương pháp giáo viên sử dụng các câu hỏi có mục đích, có định
hướng, có kế hoạch trước để trao đổi với trẻ, giúp trẻ hiểu và cảm nhận tác phẩm
một cách sâu sắc và có hệ thống. Các câu hỏi có tác dụng hướng sự chú ý của trẻ tới
đối tượng cần nhận thức, dạy trẻ biết quan sát đối tượng một cách tổng thể cũng
như quan sát tỉ mỉ các đặc điểm, tính chất các mối quan hệ của các sự vật hiện
tượng trong thiên nhiên. Các câu hỏi cũng đồng thời kích thích trẻ nói, gọi tên hoặc
mô tả các đối tượng quan sát. Qua đó vốn từ của trẻ ngày càng được mở rộng hơn.
Trong quá trình trao đổi, cô giáo cần hướng sự chú ý của trẻ vào vấn đề mấu chốt,
tránh sa đà. Cô giáo không ép buộc trả lời câu hỏi của trẻ nhưng cần hướng câu trả
lời của trẻ vào nội dung của bài đồng dao. Đàm thoại với trẻ, cô giáo không chỉ giúp
trẻ tự tin, độc lập nói lên những suy nghĩ, cảm nhận riêng của mình về bài đồng dao,
mà còn giúp các cháu tranh luận, trao đổi với nhau về một ấn tượng, một sự cảm
nhận mà chúng đã tiếp thu được từ tác phẩm. Trẻ không chỉ trao đổi với cô mà còn
trao đổi trong nhóm bạn bè, tức chúng được chia sẻ với nhau. Cô giáo nên coi mình
là một thành viên ở trong nhóm chứ không phải là người đứng cao hơn để áp đặt
trẻ. Vai trò tích cực của tập thể trẻ sẽ giúp cô giáo giải quyết được nhiệm vụ và mục
đích đặt ra trong quá trình đàm thoại. Cô nên cố gắng động viên để tất cả các trẻ
cùng tham gia vào đàm thoại. Cần chú ý sao cho câu hỏi đa dạng, buộc trẻ trả lời
bằng các từ loại khác nhau: Hỏi về tên gọi, đặc điểm, tính chất, công dụng, hoạt
động,…
của

đối
tượng

trong
bài
đồng
dao.
Ví dụ: Câu hỏi về các loại hoa quả, cây cối, con vật: cây gì đây?, đây là con gì?, đây là
quả gì?
Câu hỏi về công dụng của đồ vật: …để làm gì?
Trong quá trình đàm thoại cô cũng nên kết hợp với giảng giải khi phát hiện ra
những chi tiết mà trẻ chưa hiểu hoặc chưa rõ để kịp thời điều chỉnh nhận thức của
trẻ. Tuy nhiên, nếu trẻ trả lời sai, cô cũng không nên nhận xét một cách “thẳng
thắn” quá, làm trẻ cảm thấy “mất hứng” thậm chí xấu hổ với bạn bè. Cô có thể khéo
léo phân tích, động viên trẻ suy nghĩ thêm. Thực tế cho thấy, trẻ không bao giờ thờ
ơ với thái độ trước những câu trả lời của chúng. Cô giáo nên động viên, khuyến
khích, đặc biệt là phải tỏ thái độ tôn trọng, tin tưởng ở trẻ. Như thế mới có thể tạo
nên sự kích hoạt cảm xúc và tư duy của trẻ. Giá trị của việc đàm thoại còn là nâng
cao sự hứng thú của trẻ trong quá trình tiếp xúc với văn học.
Sẽ là sai lầm nếu chúng ta bắt trẻ nghe một bài đồng dao và đọc thuộc một bài
đồng dao đó mà không hiểu gì về nội dung của câu chuyện đó. Việc đọc diễn càm bài
đồng dao cho trẻ nghe cần kết hợp cần kết hợp chặt chẽ với quá trình giảng giải và
đàm thoại với trẻ. Điều đó sẽ giúp cho trẻ có thái độ nhận thức đối với bài tác phẩm.
Như vậy, nguyên tắc chung là trước khi cho trẻ đọc diễn cảm bài đồng dao, cô phải
Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh
Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 24

giúp trẻ nắm được nội dung chính của tác phẩm chuẩn bị tâm thế cho trẻ để trẻ có
thể cảm thụ tác phẩm được tốt.
Việc giảng giải, chủ yếu là giải thích các từ mới, từ khó có thể được tiến hành
trước hoặc ngay trong quá trình cô giáo đọc, kể tác phẩm cho trẻ nghe. Những từ
mới, từ khó nếu không được giải thích cụ thể, trẻ sẽ khó có thể hiểu được tác phẩm.
Nhưng nếu cô không tìm được cách giải thích đơn giản và dễ hiểu nhất, trẻ sẽ càng
thấy rối tung lên. Cô có thể giải thích gắn với lời đọc diễn cảm.
Cần phải chú ý, đồng dao là thể loại thuộc tác phẩm trữ tình. Thể loại này khác
với các thể loại văn học khác chúng có đặc trưng riêng về nội dung và thể thơ. Đồng
dao chủ yếu theo thể thơ 4 chữ:
Nu na nu nống
Cái bống nằm trong
Con ong nằm ngoài
Củ khoai chấm mật
Phật ngồi Phật khóc
Con cóc nhảy qua
Con gà ú ụ
Nhà mụ thổi xôi
Nhà tôi nấu chè
Chân tay xòe rụt.
Về cơ bản khi đọc diễn cảm và hướng dẫn trẻ đọc đồng dao giáo viên phải đảm
bảo các bước, các yêu cầu như xác định giọng điệu cơ bản, ngữ điệu, cách ngắt
giọng thơ ca, ngắt giọng tâm lý, nhịp điệu, cường độ giọng đọc. Nhưng vì đồng dao
có những đặc trưng riêng, đa phần các bài ca đều có nội dung phản ánh hoặc gắn
với các trò chơi của trẻ nhỏ, có sắc thái vui tươi, hồn nhiên nên giọng đọc diễn cảm
của cô và trẻ cần nhanh, sôi nổi, nhí nhảnh, vui tươi.
Từ việc đọc diễn cảm đồng dao theo đặc trưng thể loại, giáo viên cần kết hợp
chặt chẽ và linh hoạt với các biện pháp đàm thoại giảng giải nội dung tác phẩm cho
trẻ hiểu và thấm sâu vào trong môi trường nghệ thuật của bài ca. Cách giải thích có
thể linh hoạt kết hợp với lời giảng giải của cô và các phương tiện trực quan làm

tăng tính chất thuyết phục cũng như tạo được niềm hứng thú của trẻ
Chẳng hạn bài đồng dao:
Ve vẻ vè ve
Nghe vè cây trái
Dây ở trên mây
trái đậu rồng



con thật đông

Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh
Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 25

Tài liệu liên quan

*

“một số biện pháp thực hiện tốt công tác phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ năm tuổi ở trường mầm non 19 9 37

*

ĐỀ ÁN PHỔ CẬP GIÁO DỤC MẦM NON CHO TRẺ EM NĂM TUỔI GIAI ĐOẠN 2010-2015 49 1 6

*

Van ban thong bao dang ky thoi gian hoan thanh ke hoach pho cap giao duc mam non cho tre em nam tuoi giai doan 2010-2015 1 446 0

*

Một số giải pháp quản lý công tác phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi ở huyện châu thành, tỉnh đồng nai 138 956 7

*

SKKN Một số biện pháp thực hiện công tác phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi MẪU GIÁO BÌNH THỚI 30 1 1

*

SKKN một số kinh nghiệm làm hồ sơ trong việc thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ năm tuổi 16 326 0

Xem thêm: Hệ Phương Trình 2 Ẩn Lớp 10, Toán Lớp 10: Hệ Phương Trình Bậc Nhất 2 Ẩn Số

*

Biện pháp phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi ở huyện đồng văn tỉnh hà giang 118 596 0

*

skkn một số biện pháp chỉ đạo thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 05 tuổi

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Tiểu luận