Tiểu Luận Vai Trò Sáng Tạo Lịch Sử Của Quần Chúng Nhân Dân, Vai Trò Của Quần Chúng Nhân Dân Chọn Lọc

Đề tài triết học ” QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN TRONG LỊCH SỬ “

Đang xem: Tiểu luận vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân

*

hướng dẫnVui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong bài viết này, tác giả đã phân tích nhằm góp phần làm rõ thêm quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Vai trò đó thể hiện tập trung ở các điểm sau: 1/ Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội; 2/ Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội; 3/ Quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo ra mọi giá trị văn hoá tinh thần của xã hội….

Xem thêm: Sách Giải Bài Tập Toán Lớp 5 Tập 1 Trang 112 Sgk Toán 5, Giải Bài 1, 2, 3 Trang 112 Sgk Toán 5

Nội dung Text: Đề tài triết học ” QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN TRONG LỊCH SỬ “

Xem thêm: Công Thức Tính Diện Tích Tứ Giác Nội Tiếp, Lý Thuyết Tứ Giác Nội Tiếp

II —— Đề tài triết học QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨAMÁC-LÊNIN VỀ VAI TRÒ CỦA QUẦNCHÚNG NHÂN DÂN TRONG LỊCH SỬQUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ VAI TRÒ CỦA QUẦNCHÚNG NHÂN DÂN TRONG LỊCH SỬ HÀ TRỌNG THÀ(*)Trong bài viết này, tác giả đã phân tích nhằm góp phần làm rõ thêm quan niệmcủa chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong lịchsử. Vai trò đó thể hiện tập trung ở các điểm sau: 1/ Quần chúng nhân dân là lựclượng sản xuất cơ bản của xã hội; 2/ Quần chúng nhân dân là động lực cơ bảncủa mọi cuộc cách mạng xã hội; 3/ Quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạora mọi giá trị văn hoá tinh thần của xã hội.1. Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếpsản xuất ra của cải vật chất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hộiHọc thuyết về hình thái kinh tế – xã hội của C.Mác đã chứng minh rằng, phươngthức sản xuất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Nguyên lýcơ bản đó của chủ nghĩa duy vật lịch sử vạch r õ rằng, không có sản xuất vật chấtthì bất cứ xã hội nào cũng không tồn tại được. Lịch sử của xã hội, do vậy trướchết cũng là lịch sử phát triển của sản xuất vật chất. C.Mác viết: “Việc sản xuất ranhững tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp… tạo ra một cơ sở, từ đó mà người taphát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậmchí cả những quan niệm tôn giáo của con người ta”(1). Thực tiễn lịch sử của xãhội loài người cho thấy, mọi quan hệ phức tạp của đời sống xã hội dù thể hiệntrong bất kỳ lĩnh vực nào: chính trị hay pháp quyền, nghệ thuật hay đạo đức, tôngiáo hay khoa học… tất cả đều hình thành và biến đổi trên cơ sở sự vận động củanền sản xuất vật chất. Cộng đồng xã hội nào cũng được tạo nên từ những conngười cụ thể, do đó sự tồn tại và phát triển của con người là điều kiện cho sự tồntại và phát triển của xã hội. Song, con người muốn tồn tại, trước hết phải ăn,uống, mặc, ở…, mà để có những thứ đó, họ phải sản xuất và tái sản xuất. Nghĩalà, loài người bắt đầu làm nên lịch sử của mình bắt đầu từ việc chế tạo ra công cụlao động, sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng vậtchất của giới tự nhiên để tạo ra của cải xã hội, nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại vàphát triển của con người. Trong quá trình sản xuất vật chất đó, con người tất yếuphải liên kết lại với nhau theo những cách thức nhất định, đó chính là quan hệsản xuất. Trong Lao động làm thuê và tư bản, C.Mác viết: “Trong sản xuất,người ta không chỉ quan hệ với tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếukhông kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổihoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ vàquan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sảnxuất, chỉ diễn ra trong khuôn khổ những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó”(2).Trên quan hệ sản xuất này mà hình thành và phát triển hàng loạt những mối quanhệ xã hội khác mang tính tất yếu đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, nhưchính trị, đạo đức, văn hóa, khoa học, tôn giáo,… Như vậy, sản xuất vật chất làđiều kiện căn bản quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.Khi nghiên cứu về xã hội loài người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -Lênin cho rằng, “điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loàivật là ở chỗ: loài vật may mắn lắm chỉ hái lượm, trong khi con người lại sảnxuất”(3). Thật vậy, loài vật không sản xuất mà chỉ thích ứng với những biến đổikhách quan, tự phát của môi trường tự nhiên; trong khi đó, loài người chủ độn gtiến hành sản xuất vật chất, cải biến môi tr ường tự nhiên cho phù hợp với nhucầu sinh tồn và phát triển của mình. Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất,con người ngày càng hiểu biết về giới tự nhiên, tích lũy kinh nghiệm, thói quentrong sản xuất, cải tiến và chế tạo công cụ ngày càng tinh xảo, đồng thời tri thứccủa con người không ngừng được nâng cao và lực lượng sản xuất cũng ngàycàng phát triển.Lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội là quần chúng nhân dân lao động bao gồmcả lao động chân tay và lao động trí óc. V.I.Lênin chỉ rõ: “Lực lượng sản xuấthàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”(4). Chính sựphát triển của lực lượng sản xuất đã dẫn đến sự thay thế các quan hệ sản xuất lỗithời bằng những quan hệ sản xuất mới, dẫn đến sự thay đổi toàn bộ kiến trúcthượng tầng của xã hội. Như vậy, lịch sử của xã hội loài người trước hết là lịchsử của sản xuất, lịch sử của sự thay đổi các ph ương thức sản xuất khác nhau quacác thời đại, lịch sử của những người sản xuất của cải vật chất, của quần chúngnhân dân. Xtalin cho rằng, “lịch sử của sự phát triển xã hội đồng thời là lịch sửcủa bản thân những người sản xuất của cải vật chất, lịch sử của quần chúng laođộng: họ là lực lượng cơ bản của quá trình sản xuất và tiến hành sản xuất nhữngcủa cải vật chất cần thiết cho sự sinh tồn của xã hội”(5). Vai trò của quần chúngnhân dân trong sản xuất càng được nâng cao theo trình độ phát triển của xã hội.Ngày nay, cách mạng khoa học – công nghệ có vai trò đặc biệt đối với sự pháttriển của lực lượng sản xuất. Song, nó chỉ có thể được phát huy thông qua thựctiễn sản xuất của quần chúng nhân dân lao động, nhất l à đội ngũ công nhân hiệnđại và trí thức trong nền sản xuất xã hội của thời đại kinh tế tri thức. Do vậy, cóthể nói rằng, chính quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra của cải vật chất củaxã hội, là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội. Dù xem xét trong toàn bộ lịch sửcủa sự hình thành và phát triển xã hội loài người nói chung, hay xem xét trongmỗi giai đoạn lịch sử cụ thể của các xã hội hiện thực nói riêng, thì sự sản xuất vậtchất của quần chúng nhân dân vẫn luôn đóng vai trò là cơ sở, nền tảng của sự tồntại và phát triển của xã hội. Bởi vậy, việc giải thích các hiện tượng của đời sốngxã hội chỉ có căn cứ khi xuất phát từ chính nền sản xuất vật chất x ã hội do quầnchúng nhân dân tạo nên.2. Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hộiTừ khi xã hội phân chia thành giai cấp đến nay, lịch sử xã hội là lịch sử đấu tranhgiai cấp. Đây là quá trình tất yếu khách quan của xã hội có áp bức giai cấp,không do một lý thuyết xã hội nào tạo ra. Theo quan niệm của các nhà sáng lậpchủ nghĩa Mác – Lênin, đấu tranh giai cấp không phải là những cuộc bạo loạn,khủng bố, lật đổ, chỉ có ý nghĩa phá hoại, tiêu cực mà là những cuộc đấu tranhrộng khắp của quần chúng nhân dân lao động chống lại giai cấp thống trị bảo thủ.Nguyên nhân khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp trong các xã hội có giai cấpđối kháng là do mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất phát triển mang tínhchất xã hội hóa cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân vềtư liệu sản xuất đã trở nên lạc hậu so với trình độ phát triển của lực lượng sảnxuất. Mâu thuẫn này biểu hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn giữa một bên làgiai cấp cách mạng, tiến bộ đại diện cho lực lượng sản xuất mới đang đòi hỏi mộtquan hệ sản xuất mới thích hợp, với một bên là giai cấp bóc lột bảo thủ, đại biểucho những lợi ích gắn với quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu. Chính các cuộc đấutranh của quần chúng nhân dân bị áp bức, bị bóc lột chống lại giai cấp thống trị,giai cấp bóc lột, phát triển từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn đ ã làmcho xã hội phát triển.(5)Thông qua đấu tranh giai cấp, trình độ giác ngộ giai cấpvà trình độ tổ chức lực lượng đấu tranh của quần chúng ngày càng cao. Đến mộtgiai đoạn nhất định, sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp của quần chúngnhân dân dẫn đến cách mạng xã hội. Theo V.I.Lênin, mọi cuộc cách mạng xã hộiđều biểu hiện dưới hình thức đấu tranh giai cấp và thông qua đấu tranh giai cấpmà đưa xã hội tiến lên từ thấp đến cao. Trong mọi cuộc cách mạng xã hội, quầnchúng nhân dân lao động luôn giữ vai trò quyết định.Khi nghiên cứu lý luận và thực tiễn cách mạng, C.Mác cho rằng, “chính conngười làm ra lịch sử của mình”; rằng, lịch sử là lịch sử của con người theo đuổinhững mục đích của mình. Tuy nhiên, lịch sử đó không phải được tạo nên bởinhững cá nhân riêng lẻ, mà phải do số đông thực hiện, đó là quần chúng nhândân. Lịch sử đã chứng minh rằng, không có cuộc chuyển biến cách mạng nào màkhông phải là hoạt động của đông đảo quần chúng nhân dân. Họ l à lực lượng cơbản của cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng.V.I.Lênin khẳng định: “Cuộc cách mạng chỉ thực sự là một cuộc cách mạng khinào hàng chục triệu người đồng lòng hăng hái nổi dậy”(6), “Toàn bộ lịch sử cáccuộc chiến tranh giải phóng đều chỉ cho chúng ta thấy rằng khi các cuộc chiếntranh đó được đông đảo quần chúng tham gia một cách chủ động thì công cuộcgiải phóng được thực hiện một cách nhanh chóng”(7).Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, để cách mạng thành công không chỉcần lực lượng đông đảo quần chúng nhân dân tham gia, mà còn cần đến tính tíchcực, sáng tạo của họ trong từng thời kỳ lịch sử. Thời kỳ cách mạng là thời kỳ màtính chủ động, sáng tạo của đông đảo quần chúng được phát huy cao độ. Đó cũnglà thời kỳ bộc lộ rõ nét nhất, sâu sắc nhất sức mạnh vô địch của quần chúng đứnglên lật đổ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. V.I.Lênin viết: “Cách mạng là ngàyhội của những người bị áp bức và bị bóc lột. Không lúc nào quần chúng nhân dâncó thể tỏ ra là người sáng tạo trật tự xã hội mới tích cực như trong thời kỳ cáchmạng. Trong những thời kỳ như thế… thì nhân dân có thể làm được những kỳcông”(8). Nhờ sức mạnh của quần chúng nhân mà “thời kỳ cách mạng có mộttính sáng tạo lịch sử rộng lớn hơn, phong phú hơn, tự giác hơn, có kế hoạch hơn,có hệ thống hơn, dũng cảm hơn và rõ ràng hơn so với những thời kỳ tiến bộ củatiểu thị dân, của Đảng dân chủ – lập hiến, của chủ nghĩa cải l ương”(9). Đáng chúý là, cuộc cách mạng xã hội càng triệt để bao nhiêu thì tính tích cực và sáng tạocủa quần chúng càng sâu sắc bấy nhiêu. Ngược lại, các cuộc cách mạng khôngtriệt để thì tất nhiên, không phát huy được mạnh mẽ tính tích cực và sáng tạo củaquần chúng. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, tính tích cực sâu sắc của quần chúngnhân dân thể hiện rõ nhất trong cách mạng vô sản, vì đó là cuộc cách mạng manglại lợi ích cơ bản cho nhân dân lao động. Cuộc cách mạng đó tiêu diệt chế độ tưhữu, xóa bỏ chế độ người bóc lột người và đưa đến xã hội mới tiến bộ, dựa trênchế độ công hữu về tư liệu sản xuất.Kế thừa và phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin chú ý đếnnhiều cuộc cách mạng xã hội, đặc biệt là cách mạng xã hội do giai cấp công nhânlãnh đạo. V.I.Lênin so sánh: “Sức sáng tạo về mặt tổ chức của nhân dân, đặc biệtlà của giai cấp vô sản, rồi đến của giai cấp nông dân, trong những thời kỳ gióxoáy cách mạng thể hiện mạnh hơn, phong phú hơn, có kết quả hơn trong thời kỳgọi là tiến bộ lịch sử yên tĩnh (chậm như xe bò) hàng triệu lần”(10). Như vậy, vaitrò của quần chúng nhân dân rất to lớn trong các cuộc cách mạng, nhất l à giai cấpcông nhân. Với ý nghĩa đó, cách mạng vô sản là cuộc cách mạng vĩ đại nhất, sâusắc nhất và triệt để nhất trong lịch sử loài người. Nó có nhiệm vụ xóa bỏ tận gốcrễ chế độ người bóc lột người để đi đến xây dựng một xã hội không còn giai cấp,trong đó mọi người đều bình đẳng, tự do, ấm no, hạnh phúc, có điều kiện pháttriển toàn diện cá nhân con người; có sứ mệnh giải phóng giai cấp công nhân,quần chúng nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức. Xã hội mới là một xãhội “trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tựdo của tất cả mọi người”(11). Một cuộc cách mạng xã hội vĩ đại, sâu sắc, triệt đểnhư vậy không thể là sự nghiệp của một cá nhân, của một đảng, mà phải là sựnghiệp của đông đảo quần chúng nhân dân. V.I.Lênin đã khẳng định, việc xâydựng xã hội mới không phải là sự nghiệp riêng của Đảng Cộng sản, mà là sựnghiệp của tất cả quần chúng lao động. Trong sự nghiệp xây dựng n ày, “ở mọilĩnh vực của đời sống xã hội và cá nhân, mới bắt đầu có một sự tiến lên mauchóng, thật sự, thực sự có tính chất quần chúng, lúc đầu đ ược đa số dân cư thamgia, rồi về sau được toàn thể dân cư tham gia”(12). Như vậy, chính công cuộc xâydựng chế độ mới đòi hỏi phải phát huy cao độ tính tự giác và vai trò sáng tạo củaquần chúng, đồng thời cũng tạo ra những tiền đề khách quan để phát huy vai tròấy.Tóm lại, nguyên nhân sâu xa của mọi cuộc cách mạng xã hội là bắt đầu từ sựphát triển của lực lượng sản xuất, dẫn đến mâu thuẫn với quan hệ sản xuất lỗithời lạc hậu, còn nguyên nhân trực tiếp là mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giaicấp. Điều đó cũng có nghĩa là bắt đầu từ hoạt động sản xuất vật chất của quầnchúng nhân dân. Bởi vậy, nhân dân lao động chính là chủ thể của các quá trìnhkinh tế, chính trị, xã hội; họ đóng vai trò là động lực cơ bản của mọi cuộc cáchmạng xã hội.3. Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinhthầnQuần chúng nhân dân không những là lực lượng quyết định và sáng tạo trong sảnxuất của cải vật chất, trong cách mạng xã hội, mà còn là người sáng tạo ra nhữnggiá trị văn hóa tinh thần. Tuy nhiên, không phải lúc nào vai trò này của quầnchúng nhân dân cũng được xem xét đúng mức. Trong lịch sử, các giai cấp bóc lộtthống trị thường cho rằng, nhân dân lao động l à những người thấp hèn, “vai u thịtbắp” thì không thể có vai trò gì trong việc phát minh khoa học và sáng tạo vănhọc, nghệ thuật; rằng, hoạt động tinh thần l à lĩnh vực dành riêng cho nhữngngười trí thức, thuộc tầng lớp trên trong xã hội. Bên cạnh đó, quan niệm duy tâmcho rằng, lĩnh vực hoạt động văn hóa tinh thần như khoa học, triết học, nghệthuật,… không thuộc về nhân dân lao động, mà thuộc về những thiên tài, nhữngngười sáng tác chuyên nghiệp đã được “thần thánh” trao cho những khả năng ấy.Đây là những quan niệm sai lầm mà chủ nghĩa duy vật lịch sử đã bác bỏ.Với phương pháp biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử trong khi không hề phủnhận hoặc coi nhẹ vai trò của các danh nhân văn hóa nhân loại, như các nghệ sĩ,các nhà triết học, các nhà khoa học,… vẫn luôn khẳng định vai trò to lớn củaquần chúng nhân dân lao động đối với sự phát triển đời sống tinh thần của x ã hội.Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác cho rằng, ngay từ buổi đầu của lịch sử, trong xãhội cộng sản nguyên thủy, bên cạnh những hoạt động sản xuất vật chất, conngười đã có những hoạt động về tinh thần, về văn học, nghệ thuật, mặc dù nhữnglĩnh vực này còn thô sơ, mộc mạc. Có thể nói, từ khi loài người biết chế tạo và sửdụng công cụ để tiến hành sản xuất của cải vật chất, thì đồng thời họ cũng bắtđầu sản xuất ra những giá trị tinh thần. Trong lao động sản xuất, con người luôntiếp xúc với tự nhiên và xã hội; nhờ đó, trí tuệ của họ về mọi lĩnh vực dần hìnhthành và phát triển, hiểu biết về tự nhiên, về xã hội, về chính bản thân mình đượcnâng cao. Những mong muốn tìm hiểu vũ trụ, những vui mừng cảm hứng trướcnhững thành quả lao động, trước cảnh vật thiên nhiên của con người được thểhiện trong thần thoại, trong hội họa, điêu khắc,… Có thể nói, những nền văn họcnghệ thuật lớn đều bắt nguồn từ văn học nghệ thuật dân gian. C.Mác viết: “Thầnthoại Hy Lạp không những cấu thành kho tàng của nghệ thuật Hy Lạp mà còn làmiếng đất đã nuôi dưỡng nghệ thuật Hy Lạp nữa”(13). Hồ Chí Minh cũng từngnói: “Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là những người sáng tạo.Nhưng quần chúng không chỉ sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Quầnchúng còn là những người sáng tác nữa”(14).Một mặt, quần chúng lao động là người trực tiếp tham gia sáng tác; mặt khác,những hoạt động thực tiễn, những nguyện vọng, tâm tư, tình cảm của họ là nguồncảm hứng vô tận giàu chất thơ cho hoạt động sáng tác của những người làm vănhọc, nghệ thuật chuyên nghiệp. Bất cứ một giá trị văn hóa nghệ thuật nào cũngkhông thể tách rời đời sống phong phú của quần chúng nhân dân. C ùng với vănhọc, nghệ thuật, sự ra đời và phát triển của khoa học, kỹ thuật cũng chứng minhvai trò to lớn của quần chúng nhân dân. Khoa học, kỹ thuật ra đời tr ên cơ sở kháiquát kinh nghiệm thực tiễn lao động sản xuất và đấu tranh của quần chúng laođộng cũng như do sự thôi thúc của nhu cầu sản xuất. Chính những cải tiến côngcụ, phát minh khoa học, kỹ thuật đều bắt nguồn từ quá tr ình sản xuất của quầnchúng lao động. Ngay toán học là một lĩnh vực trừu tượng nhất của khoa học tựnhiên, dường như là sản phẩm của trí tuệ thuần túy thì cũng có nguồn gốc trongthực tiễn đo đạc trong sản xuất nông nghiệp thời cổ đại. Không chỉ l à người thamgia phát triển khoa học – kỹ thuật, nhân dân lao động còn là những người trựctiếp áp dụng những thành tựu của khoa học – kỹ thuật vào sản xuất và thông quađó, kiểm nghiệm lại những phát minh, giả thuyết, kết luận của khoa học, kỹthuật. Thực tiễn sản xuất luôn đặt ra những vấn đề mới đòi hỏi khoa học, kỹ thuậtgiải quyết, thúc đẩy khoa học, kỹ thuật phát triển không ngừng. Ph.Ăngghen chỉ rõ:“Nếu trong xã hội xuất hiện một nhu cầu kỹ thuật thì điều đó sẽ thúc đẩy khoahọc tiến lên hơn một chục trường đại học”(15). Sự phát triển không ngừng đóluôn mang tính kế thừa, luôn dựa vào những thành tựu của các thế hệ trước, dựatrên tri thức và kinh nghiệm của quần chúng nhân dân.Tóm lại, xét từ kinh tế đến chính trị, từ hoạt động vật chất đến hoạt động tinhthần, quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử. Tuy nhiên,phải trải qua một thời gian dài tới khi chủ nghĩa Mác ra đời thì chân lý “quầnchúng sáng tạo ra lịch sử” mới được nêu lên. Từ khi có được nhận thức đúng vềvai trò của quần chúng và nhận thức ấy được ăn sâu vào hàng triệu con người thìlịch sử biến chuyển nhanh chóng lạ thường, tính tích cực và sáng tạo cách mạngcủa quần chúng được biểu lộ vô cùng mạnh mẽ, thời gian phát triển lịch sử đượcrút ngắn, nhất là những thời kỳ cách mạng. Có thể khẳng định rằng, so với nhữngquan niệm khác trong lịch sử về vai trò của quần chúng nhân dân, quan niệm củachủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề này đã thể hiện sự vượt trội hơn hẳn cả từ gócđộ lý luận lẫn thực tiễn. V.I.Lênin đã đánh giá cao quan điểm duy vật lịch sử củaC.Mác về vai trò của quần chúng nhân dân: “Những lý luận trước kia đã khôngnói đến chính ngay hành động của quần chúng nhân dân, còn chủ nghĩa duy vậtlịch sử, lần đầu tiên, đã giúp ta nghiên cứu một cách chính xác, như khoa học tựnhiên, những điều kiện xã hội của đời sống quần chúng và những biến đổi củanhững điều kiện ấy”(16). q(*) Thạc sĩ, Trường Đại học An ninh nhân dân, Tp. Hồ Chí Minh.(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t. 19, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,1995, tr.500.(2) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t. 6, tr.552.(3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t. 34, tr.241.(4) V.I.Lênin. Toàn tập, t.38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr.430.(5) Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1970, tr.189.(6) V.I.Lênin. Toàn tập, t.36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr.613.(7) V.I.Lênin. Sđd., t. 36, tr.30.(8) V.I.Lênin. Sđd., t. 11, tr.131.(9) V.I.Lênin. Sđd., t. 12, tr.390.(10) V.I.Lênin. Sđd., t.12, tr.398.(11) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.14, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,1995, tr.628.(12) V.I.Lênin. Toàn tập, t.33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tr.398(13) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,1993, tr.890.(14) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.9. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.250.(15) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.39, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,1999, tr.271.(16) V.I.Lênin. Mác – Ăngghen – chủ nghĩa Mác. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978,tr.15.

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Tiểu luận