tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.1 KB, 33 trang )

Đang xem: Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc

MỤC LỤC
KẾT LUẬN……………………………………………………………………………………30

LỜI MỞ ĐẦU
Muốn đưa cách mạng đến thành công phải có lực lượng cách mạng đủ mạnh để chiến
thắng kẻ thù và xây dựng thành công xã hội mới; muốn có lực lượng cách mạng mạnh phải
thực hiện đại đoàn kết, quy tụ mọi lực lượng cách mạng thành một khối vững chắc. Do đó,
đoàn kết trở thành vấn đề chiến lược lâu dài của cách mạng, là nhân tốt bảo đảm cho thắng
lợi của cách mạng.
Như Hồ Chí Minh đã nói: “sức mạnh mà Người đã tìm được là đại đoàn kết dân tộc, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”. Có như vậy đất nước ta mới hoàn toàn thống
nhất, dân tộc ta mới có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc.
Chính vì lẽ đó mà chúng em đã lựa chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc và sự vận dụng của Đảng ta, liên hệ bản thân”. Đây là một đề tài hay, có nội dung và
ý nghĩa to lớn, nó còn là bài học sâu sắc cho mỗi thế hệ. Bài học quý báu cho quá trình dựng
nước và giữ nước. Bài tiểu luận của chúng em gồm bốn chương chính như sau:
I. Những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
II. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
III. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và thực tiễn cách mạng Việt Nam.
IV. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và liên hệ bản thân.
Mặc dù các thành viên trong nhóm đã hết sức cố gắng để bài thảo luận được hoàn thiện,
tuy nhiên do yếu tố khách quan và chủ quan nên bài thảo luận khó tránh khỏi những hạn chế
nhất định và vẫn còn những nội dung mới để tiếp tục, bổ sung và sửa chữa, chúng em rất
mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn đọc để bài thảo luận của chúng em hoàn
thiện hơn.

Nhóm sinh viên thực hiện
NHÓM 9
1
CHƯƠNG I :
NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT

DÂN TỘC
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc được hình thành trên những cơ sở tư
tưởng -lý luận và thực tiễn rất phong phú.
1. Truyền thống yêu nước, nhân ái , tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt
Nam.
Tinh thần yêu nước gắn kết với ý thức cộng đồng , ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc
đã được hình thành và củng cố trong hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ
nước của cả dân tộc, tạo thành một truyền thống bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm
của mỗi con người Việt Nam. Tinh thần ý thức ấy đã tạo nên sức mạnh vô địch của cả một
dân tộc để chiến thắng mọi thiên tai dịch họa, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân
tộc được giữ vững.
Từ ngàn đời nay, đối với mỗi người Việt Nam tinh thần yêu nước – nhân nghĩa – đoàn
kết trở thành đức tính lẽ sống tự nhiên của mỗi người:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng;
Thành một triết lý nhân sinh:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao;
Thành phép ứng xử và tư duy chính trị:
Tình làng, nghĩa nước.
Nước mất thì nhà tan.
Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh.
2
Tất cả đã in đậm trong cấu trúc xã hội truyền thống, tạo thành quan hệ ba tầng chặt chẽ:
gia đình – làng xã – quốc gia (nhà – làng – nước) và cũng trở thành sợi dây liên kết các dân
tộc, các giai cấp trong xã hội Việt Nam.
Truyền thống ấy không chỉ được phản ánh trong kho tàng văn hóa dân gian, mà còn được
những anh hùng dân tộc ở các thời kỳ lịch sử khác nhau như Trần Hưng Đạo, Lê Lợi,
Nguyễn Trãi, Quang Trung đúc kết nâng lên thành phép đánh giặc, giữ nước, “tập hợp bốn
phương manh lệ”, “trên dưới đồng lòng, cả nước chung sức”, “tướng sĩ một lòng phụ tử”,

“khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”, “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là
dân”, Truyền thống ấy được tiếp nối trong tư tưởng tập hợp lực lượng dân tộc của các nhà
yêu nước trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược và các thế lực phong kiến tiếp
tay cho ngoại bang, mà tiêu biểu nhất là cụ Phan Bội Châu và cụ Phan Chu Trinh ở một phần
tư đầu thế kỷ XX.
Hồ Chí Minh đã sớm hấp thụ được truyền thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết của
dân tộc. Người đã khẳng định “từ xưa tới nay, mỗi khi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần
ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự hiểm
nguy, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Hơn nữa còn phải phát
huy truyền thống đó trong giai đoạn cách mạng mới của dân tộc: “phải ra sức giải thích,
tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được
thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”.
Rõ ràng truyền thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết là cơ sở quan trọng hình thành
tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
2. Sự tổng hợp phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa.
Về thực tiễn, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở
tổng kết những kinh nghiệm của phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng ở
nhiều nước trên thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Những
thành công hay thất bại của phong trào ấy đều được người nghiên cứu để rút ra những bài
học cần thiết cho việc hình thành tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc.
3
Phong trào yêu nước Việt Nam đã diễn ra rất mạnh mẽ từ khi thực dân Pháp xâm lược
nước ta. Từ các phong trào Cần Vương, Văn Thân, Yên Thế cuối thế kỷ XIX, đến các phong
trào Đông Du, Duy Tân, chống thuế đầu thế kỷ XX, các thế hệ yêu nước người Việt Nam đã
nối tiếp nhau vùng dậy chống ngoại xâm, nhưng đều thất bại. Thực tiễn hào hùng, bi tráng
của dân tộc đã chứng tỏ rằng, bước vào thời đại mới chỉ có tinh thần yêu nước thì không thể
đánh bại được các thế lực đế quốc xâm lăng. Vận mệnh của đất nước đòi hỏi có một lực
lượng lãnh đạo cách mạng mới, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với quy luật
phát triển của lịch sử và những yêu cầu của thời đại mới, đủ sức quy tụ được cả dân tộc vào

cuộc đấu tranh chống đế quốc thực dân, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc bền vững thì
mới giành được thắng lợi. Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã thấy những
hạn chế trong việc tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước tiền bối, những yêu cầu khách
quan mới của yêu cầu lịch sử dân tộc. Đây chính là điểm xuất phát để Hồ Chí Minh xác
định: Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem họ làm như thế
nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta.
Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiến hành khảo sát tình hình các
nước tư bản chủ nghĩa và các nước thuộc địa ở hầu khắp các châu lục. Người đã nghiên cứu
các cuộc cách mạng tư sản, đặc biệt là cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp, nguyên nhân dẫn
đến thắng lợi của giai cấp tư sản cũng như tại sao các cuộc cách mạng tư sản vẫn chỉ là cách
mạng “không đến nơi”. Tổng kết thực tiễn đấu tranh của các dân tộc thuộc địa, Hồ Chí Minh
thấy rõ sức mạnh tiềm ẩn to lớn của họ, và cũng thấy rõ những hạn chế: các dân tộc thuộc
địa chưa có được sự lãnh đạo đúng đắn, chưa biết đoàn kết lại, chưa có tổ chức và chưa biết
tổ chức.
Cách mạng Tháng Mười Nga cùng với Lênin, người lãnh đạo thắng lợi cuộc cách mạng
đó, đã đưa Hồ Chí Minh đên bước ngoặt quyết định trong việc tìm đường cứu nước. Từ chỗ
chỉ biết đến cách mạng Tháng Mười một cách cảm tính, Người đã nghiên cứu để hiểu một
cách thấu đáo con đường cách mạng Tháng Mười, và những bài học kinh nghiệm quý báu
mà cuộc cách mạng đã đem lại cho phong trào cách mạng thế giới: đặc biệt là bài học về huy
động, tập hợp lực lượng quần chúng công nông đông đảo để giành và giữ chính quyền cách
mạng để đánh tan sự can thiệp của 14 nước đế quốc muốn bóp chết nhà nước Xô viết non
trẻ, để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, mở ra một thời đại mới cho lịch sử xã hội nhân
4
loại. Hồ Chí Minh nghiên cứu cách mạng Tháng Mười không chi qua báo chí sách vở, mà
còn ở ngay trên đất nước của Lênin. Điều nay đã giúp người hiểu sâu sắc thế nào là một cuộc
“cách mạng đến nơi”, để lãnh đạo nhân dân Việt Nam đi vào con đường cách mạng mới
những năm sau này.
Đối với các cuộc cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, Hồ Chí Minh đặc biệt chú
ý đến Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước có thể đem lại cho Việt Nam nhiều bài học bổ ích
về tập hợp các lực lượng yêu nước tiến bộ để tiến hành cách mạng (đoàn kết các dân tộc, các

giai tầng, các đảng phái và tôn giáo nhắm thực hiện mục tiêu của từng giai đoạn, từng thời
kỳ cách mạng, như chủ trương “Liên Nga, thân Cộng, ủng hộ công nông”, “hợp tác Quốc –
Cộng” của Tôn Trung Sơn).
3. Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Cơ sở lý luận quan trọng nhất đối với quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đoàn kết dân tộc là những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin: cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, giai cấp vô sản lãnh đạo cách
mạng phải trở thành dân tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của
cách mạng, đoàn kết dân tộc phải gắn với đoàn kết quốc tế, “ Vô sản tất cả các nước, đoàn
kết lại”, “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại”,
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin là vì chủ nghĩa Mác – Lênin là vì chủ
nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng, đã chỉ ra sự
cần thiết và con đường tập hợp, đoàn kết các lực lượng cách mạng trong phạm vi từng nước
và trên thế giới để giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc
thực dân.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa thực dân chủ yếu ở chỗ vừa hoạt động cách mạng,
Người vừa nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin , vừa tìm hiểu về cách mạng Tháng Mười, vì
vậy Người đã sớm nắm được linh hồn của chủ nghĩa Mác – Lênin, những vấn đề cốt lõi nhất
của học thuyết cách mạng và khoa học của các ông. Nhờ đó Người đã có cơ sở khoa học để
đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như hạn chế trong các di sản truyền thống, trong tư
tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn
trên thế giới, những bài kinh nghiệm rút ra từ cuộc cách mạng các nước, từ đó hình thành và
hoàn chỉnh tư tưởng của người về đại đoàn kết dân tộc.
5
Hồ Chí Minh tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin và vận dụng sáng tạo vào Việt Nam. Người
thực hiện khối Liên minh giai cấp; thành lập mặt trận; đoàn kết quốc tế, coi cách mạng Việt
Nam là một bộ phận cách mạng thế giới. Người thực hiện tài tình cuộc chiến tranh nhân dân
đánh thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Người kêu gọi toàn dân khán chiến, toàn dân kiên quốc.
Người chủ trương không phân biệt già, trẻ, gái, trai, hễ là người Việt Nam đều đứng lên
giành quyền độc lập.

CHƯƠNG II:
NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách
mạng.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh có ý nghĩa chiến lược, nó là một tư
tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Đó là chiến lược tập
hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được, nhằm hình thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc
trong cuộc đấu tranh với kẻ thù dân tộc, giai cấp.
Hồ Chí Minh cho rằng, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX bị thất bại có phần nguyên nhân sâu xa là cả nước không đoàn kết được thành một
khối thống nhất. Người thấy rằng muốn đưa cách mạng đến thành công phải có lực lượng
cách mạng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công xã hội mới; muốn có lực
lượng cách mạng phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ mọi lực lượng cách mạng thành một
khối vững chắc. Do đó, đoàn kết trở thành vấn đề chiến lược lâu dài của cách mạng, là nhân
tố bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng.
Hồ Chí Minh đi tới kết luận: muốn được giải phóng, các dân tộc bị áp bức và nhân dân
lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng đấu tranh cách mạng, bằng cách mạng vô sản.
Người đã vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về cách mạng vô sản vào
thực tiễn Việt Nam, xây dựng lý luận cách mạng thuộc địa, trong đó người quan tâm nhiều
đến vấn đề lực lượng cách mạng và phương pháp cách mạng.
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính
sách và phương pháp tập hợp cho phù hợp những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết
6
dân tộc phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng. Hồ Chí Minh đã nêu ra
những luận điểm có tính chân lý:
Đoàn kết làm ra sức mạnh; “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”.
Đoàn kết là điểm mẹ: “Điều này mà thực hiện tốt thì sẽ đẻ ra con cháu đều tốt…”
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công”.
Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm coi sức mạnh

của cách mạng là sức mạnh của nhân dân: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần
dân liệu cũng xong”. Đồng thời, người lưu ý rằng, nhân dân bao gồm nhiều lứa tuổi, nghề
nghiệp, nhiều tầng lớp, giai cấp, nhiều dân tộc, tôn giáo, do đó phải đoàn kết nhân dân vào
Mặt trận thống nhất. Để làm được viếc đó, Người yêu cầu Đảng, Nhà nước phải có chủ
trương, chính sách đúng đắn, phù hợp giai cấp, tầng lớp, trên cơ sở lấy lợi ích chung của Tổ
quốc và những quyền lợi cơ bản của nhân lao động, làm “mẫu số chung” cho sự đoàn kết.
2. Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng.
Đối với Hồ Chí Minh, yêu nước phải thể hiện thành thương dân, không thương dân thì
không thể có tinh thần yêu nước. Dân ở đây là số đông, phải làm cho số đông ấy ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, sống tự do, hạnh phúc.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi, đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, lực lượng lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam. Trong Lời
kết thúc buổi ra mắt của Đảng lao động Việt Nam ngày 3-3-1951, Hồ Chí Minh đã thay mặt
toàn bộ Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc: “Mục đích của Đảng lao động Việt Nam gồm
trong 8 chữ: ĐOÀN KẾT, TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”. Nói chuyện với cán bộ
tuyên huấn miền núi về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Người chỉ rõ: “Trước cách mạng tháng
Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho đồng bào các dân tộc
hiểu được mấy việc: Một là đoàn kết. Hai là cách mạng hay kháng chiến để giành đòi độc
lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích tuyên huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai là
xây dựng xã hội chủ nghĩa. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà”.
Đại đoàn kết dân tộc không phải chỉ là mục tiêu, mục đích hàng đầu của Đảng mà còn là
mục tiêu, mục đích hàng đầu của cả dân tộc. Như vậy, đại đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi
khách quan của bản thân quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng, là sự
7
nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp,
hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi khách quan, những đòi hỏi tự giác thành thực hiện có tổ
chức, thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân
dân và hạnh phúc cho con người.
3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Trong tưởng Hồ Chí Minh vấn đề Dân và Nhân dân được đề cập một cách rõ ràng , toàn

diện, có sức thuyết phục, thu phục lòng người. Các khái niệm này có nội hàm rất rộng. Hồ
Chí Minh dùng các khái niệm này để chỉ “mọi con dân nước Việt”, “mỗi một người con
Rồng cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người tín ngưỡng với
không tín ngưỡng, không phân biệt “già, trẻ, gái trai, giàu nghèo, quý tiện”. Như vậy, DÂN,
NHÂN DÂN vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng, vừa được hiểu là mỗi người Việt
Nam cụ thể, và cả hai đều là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc. Nói đến đại đoàn kết dân tộc
cũng có nghĩa là phải tập hợp mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung.
Người đã nhiều lần nêu rõ: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ
quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức có lòng phục vụ
Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Ta ở đây vừa Đảng, vừa là mọi người
dân của Tổ quốc Việt Nam. Với tinh thần đoàn kết rộng rãi, Người đã dùng khái niệm đại
đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong suốt tiến
trình cách mạng Việt Nam.
Muốn thực hiện được việc đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước-
nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với con người. Hồ
Chí Minh cho rằng ngay với những người lầm đường lạc lối nhưng đã biết hối cải, chúng ta
vẫn kéo họ về phía dân tộc, vẫn đoàn kết với họ, mà không hoàn toàn định kiến, khoét sâu
cách biệt. Người đã lấy hình tượng năm ngón tay có ngón dài ngón ngắn, nhưng cả năm
ngón đều thuộc về một bàn tay, để nói lên sự cần thiết phải thực hiện đại đoàn kết rộng rãi.
Thậm chí đối với những người trước đây đã chống chúng ta, nhưng nay không chống nữa,
khối đại đoàn kết dân tộc vẫn mở rộng cửa đón tiếp họ. Người đã nhiều lần nhắc nhở: “Bất
kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì những người đó trước
đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”. Với tấm lòng độ lượng,
bao dung, Người tha thiết kêu gọi những người thật thà yêu nước, không phân biệt tâng lớp
8
nào, tín ngưỡng nào, chính kiến nào và trước đây đứng về phe nào; chúng ta hãy thật thà
cộng tác vì dân vì nước. Để thực hiện được đoàn kết, Người còn căn dặn: Cần xóa bỏ hết
thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ để phục vụ nhân
dân.
Sở dĩ Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm đại đoàn kết dân tộc một cách rộng rãi như

trên là vì Người có lòng tin ở nhân dân, tin rằng trong mỗi người, “ai cũng có ít hay nhiều
tấm lòng yêu nước” tiềm ẩn bên trong. Tâm lòng yêu nước ấy có khi bị bụi bậm che mờ, chỉ
cần làm thức tỉnh lương chi con người thì lòng yêu nước lại bộc lộ. Vì vậy mẫu số chung để
quy tụ mọi người vào khối đại đoàn kết dân tộc chính là nền độc lập và thống nhất của Tổ
quốc, là cuộc sống tự do và hạnh phúc của nhân dân cần phải xây dựng từ hôm nay cho đến
mãi mai sau.
Dân tộc, toàn dân là khối rất đông bao gồm nhiều chục triệu con người. Muốn xây dựng
khối đại đoàn kết rộng lớn như vậy, thì phải xác định rõ đâu là nền tảng của khối đại đoàn
kết dân tộc và những lực lượng nào tạo nên cái nền tảng đó. Về điều này, Người đã chỉ rõ:
“Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân là
công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là cái gốc của đại đoàn kết.
Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn
kết các tầng lớp nhân khác”. Người còn phân tích sâu hơn, đâu là lực lượng nòng cốt tạo nên
nền tảng ấy: “Lực lượng chủ yếu trong khối đại đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên
minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất”. Về sau Người nêu thêm: lấy
liên minh công – nông – lao động trí óc làm nên tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân. Nền
tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng có thể mở rộng, không
e ngại bất khì thế lực nào có thể làm suy thoái khối đại đoàn kết dân tộc.
4. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức là Mặt trận dân tộc
thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hồ Chí Minh cho rằng: đại đoàn kết là để tạo nên lực lượng cách mạng, để làm cách
mạng xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới. Do đó, đại đoàn kết dân tộc không thê chỉ
dừng lại ở quan niệm, tư tưởng, ở những lời kêu gọi, mà phải trở thành một chiến lược cách
mạng, trở thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nó phải biến thành sức
9
mạnh vật chất, thành lực lượng vật chất của tổ chức. Tổ chưc thể hiện khối đại đoàn kết dân
tộc chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Cả dân tộc hay toàn dân chỉ trở thành lực lượng to lớn, trở thành sức mạnh vô địch khi
được giác ngộ mục tiêu chiến đấu chung, được tổ chức lại thành một khối vững chắc và hoạt
động theo một đường lối chính trị đúng đắn. Nếu không thể, quần chúng nhân dân dù có

hàng triệu, hàng triệu con người cũng chỉ là một khối đông không có sức mạnh. Thật bại của
các phong trào yêu nước trước kia đã chứng minh rất rõ vấn để này.
Từ khi tìm được con đường và sức mạnh để cứu nước, Hồ Chí Minh đã rất chú ý đưa
quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai cấp, từng giới, từng
ngành nghề, từng lừa tuổi, từng tôn giáo; hơn nữa còn phù hợp với từng bước phát triển của
phong trào cách mạng. Đó là các hội ái hữu hay tương trợ , công hội hay nông hội, đoàn
thanh niên hay hội phụ nữ, đội thiếu niên nhi đồng hay hội phụ lão, hội Phật giáo cứu quốc,
Công giáo yêu nước hay những nghiệp đoàn,…Và bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc thống
nhất, nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi con dân nước Việt, không
phải chỉ ở trong nước mà còn bao gồm cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài, dù ở
bất cứ phương trời nào, nếu tấm lòng vẫn hướng về quê hương đất nước, về tổ quốc Việt
Nam,…
Tùy theo từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Mặt trận dân tộc thống nhất có thể có
những tên gọi khác nhau nhưng thực chất nó cũng chỉ là một tổ chức – đó là tổ chức chính trị
rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, tôn giáo, dân tộc, đảng phái, các cá nhân tổ
chức yêu nước ở trong và ngoài nước phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập, thống nhất của
Tổ quốc và tự do , hạnh phúc của nhân dân. Mặt trận phải có cương lĩnh, điều lệ phù hợp với
yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, Mặt trận thống nhất phải được xây dựng theo những nguyên tắc sau
đây:
– Là thực thể của tu tưởng, chiến lược đại đoàn kết dân tộc, Mặt trận thống nhất dân tộc
phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công – nông – lao động trí óc, dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản, từ đó mở rộng Mặt trận, làm cho mặt trận thực sự quy tụ được cả dân
tộc, tập hợp được toàn dân, kết thành một khối vững chắc.
10
– Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống nhất lợi ích
tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không
ngừng mở rộng.
Lợi ích tối cao của dân tộc là Tổ quốc độc lập và thồng nhất, xã hội giàu mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Để có thể xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc, phải làm cho mọi

Xem thêm: Nghị Luận Về Văn Hóa Dân Gian Việt Nam Trong Xã Hội Đương Đại

người thuộc bất cứ giai tầng nào cũng đặt lợi ích tối cao của dân tộc lên trên hết và trước hết.
Bởi lẽ lợi ích tối cao của dân tộc của dân tộc có được bảo đảm thì lợi ích của mỗi bộ phận,
mỗi người mới được thực hiên.
Mỗi bộ phận, mỗi người lại có những lợi ích riêng khác nhau. Những lợi ích riêng
chính đáng, phù hợp với lợi ích chung của đất nước và dân tộc phải được tôn trọng. Ngược
lại những gì riêng biệt không phù hợp sẽ dần dần được giải quyết bằng lợi ích chung của dân
tộc, bằng sự nhận thức đúng đắn hơn của mỗi người, mỗi bộ phận về mối quan hệ giữa lợi
ích chung và lợi ích riêng. Mặt trận cần đặc biệt quan tâm giải quyết thỏa đáng vấn đề này
đối với các thành viên tham gia. Mặt trận bằng việc thực hiện nghiêm khắc các hiệp thương
dân chủ, cùng nhau bàn bạc để đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức.
Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến
bộ.
5. Đảng Cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, lại vừa là lực
lượng lãnh đạo Mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam không phải chỉ là sản phẩm của sự kết
hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân, mà còn cả với phong trào yêu nước
Việt Nam. Bởi lẽ, Đảng ra đời trong bão táp của cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân gắn
chặt với cuộc đấu tranh của cả dân tộc. Những người tham gia Đảng Cộng sản không phải
chỉ là những người tiên tiến thuộc giai cấp công nhân, mà số đông lại là những người tiên
tiến thuộc giai cấp nông dân, tiểu tư sản, các tầng lớp lao động chân tay và trí óc, kể cả
những người vốn thuộc các giai cấp bóc lột đã từ bỏ hệ tư tưởng và lợi ích của giai cấp
mình, giác ngộ lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, Đảng vừa là Đảng của
giai cấp công nhân, lại vừa là Đảng của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Luận điểm này
của Hồ Chí Minh hoàn toàn khác với luận điểm về “đảng toàn dân” của những người theo
chủ nghĩa xét lại đã nêu ra trong những năm 60 của thế kỷ XX. Theo Hồ Chí Minh, Đảng
11
Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai vấp công nhân vì Đảng mang bản chất giai cấp công
nhân và “ lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm cốt”. Là Đảng của nhân dân lao động và của cả
dân tộc, vì Đảng ra đời trong lòng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đại biểu cho lợi
ích của cả dân tộc. Hơn nữa, trong cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng lại đặt lợi ích của

dân tộc lên hết và trước hết vì nếu không giành được độc lập cho dân tộc thì lợi ích của giai
cấp công nhân “ngàn vạn năm cũng không giải quyết được”.
Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống chủ nghĩa tư bản mang tính chất quốc tế,
nhưng cuộc đấu tranh ấy lại diễn ra trước hết trong từng quốc gia dân tộc. Vì vậy giai cấp
công nhân và Đảng của nó trước hết phải trở thành dân tộc, như Mác và Ănghen đã nêu ra
trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Ở Việt Nam, điều ấy đã là đương nhiên ngay từ khi
Đảng Cộng sản ra đời, cũng như trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Đại đoàn kết dân tộc , tập hợp toàn dân trong cuộc đấu tranh cách mạng đã trở thành vấn đề
máu thịt của Đảng. Đại bộ phận nhân dân Việt Nam đã coi Đảng Cộng sản là Đảng của
mình, đó cũng là điều dễ hiểu. Đây là đặc điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, khác rất nhiều
so với các Đảng Cộng sản ở Tây Âu. Vinh dự ấy rất to lớn. nhưng trách nhiệm của Đảng
trước dân tộc cũng rất nặng nề.
Như Hồ Chí Minh đã nói, muốn quy tụ được cả dân tộc, Đảng phải “vừa là đạo đức,
vừa là văn minh”. Điều này hoàn toàn thống nhất với mệnh đề của Lênin mà Người thường
nhắc lại “ Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời
đại”. Văn minh cũng có nghĩa là trí tuệ, danh dự, lương tâm là đạo dức. Tiên phong về trí
tuệ, mẫu mực về đạo đức; Đảng đã được nhân dân ủng hộ và đã trở thành hạt nhân của khối
đại đoàn kết dân tộc.
Là tổ chức chính trị to lớn nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất, là bộ tham mưu của
giai cấp công nhân và của cả dân tộc, Đảng lãnh đạo xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất,
đồng thời cũng là một thành viên của Mặt trận. Quyền lãnh đạo Mặt trận không phải Đảng tự
phong cho mình, mà được nhân dân thừa nhận. Điều này đã được Hồ Chí Minh phân tích rất
cặn kẽ: “ Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra
là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và
công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực
lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”.
12
Đảng lãnh đạo Mặt trận trước hết bằng việc xác định chính sách Mặt trận đúng đắn, phù
hợp với từng giai đoạn, từng thời kì cách mạng. “ Chính sách Mặt trận là một chính sách rất
quan trọng. Công tác Mặt trận là một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách

mạng”. Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, “Đảng ta có chính sách Mặt trận dân tộc đúng
đắn, cho nên đã phát huy được truyền thống đoàn kết và yêu nước rất vẻ vang của dân tộc
ta”.
Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ. Đảng lãnh đạo Mặt trận trước
hết phải thực hiện sự lãnh đạo của mình theo nguyên tắc của Mặt trận. Đảng phải dùng
phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử,
cảm hóa, khêu gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, hết sức tránh gò ép, quan liêu, mệnh lệnh,
không thể và không được lấy quyền uy của mình để buộc các thành viên khác trong Mặt trận
phải tuân theo. Đảng phải thực sự tôn trọng các tổ chức, các thành viên của Mặt trận, nếu
Đảng muốn giành được sự tôn trọng thực sự của họ. Hồ Chí Minh đã căn dặn cán bộ, đảng
viên về công tác Mặt trận: “Phải thành thực lắng nghe ý kiến của người ngoài Đảng, Cán bộ
và đảng viên không được tự cao tự đại, cho mình là tài giỏi hơn mọi người; trái lại phải học
hỏi điều hay điều tốt của mọi người Cán bộ và đảng viên có quyết tâm làm như thế thì
công tác Mặt trận nhất định sẽ tiến bộ nhiều”.
Muốn lãnh đạo Mặt trận, lãnh đạo xây dựng khối đoàn kết toàn dân, Đảng phải thực sự
đoàn kết nhất trí. Sự đoàn kết của Đảng là cở sở vứng chắc để xây dựng sự đoàn kết của toàn
dân. Sự đoàn kết của Đảng càng được củng cố thì sự đoàn kết của dân tộc càng được tăng
cường. Đảng đoàn kết, dân tộc đoàn kết và sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân đã
tạo nên sức mạnh bên trong của cách mạng Việt Nam để vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng
mọi kẻ thù, đi tới thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
6. Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế: chủ nghĩa yêu nước chân
chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, đây cũng là
tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh.
Khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã sớm xác định cách mạng Việt Nam
là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam chỉ có thể giành được thắng lợi
khi đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới.
13
Trong những năm chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Người đã nêu
rõ “phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc
với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Từ đó về sau, tư tưởng của Người về đoàn

kết với phong trào cách mạng thế giới càng được làm rõ hơn và đầy đủ hơn. Đó là phong
trào giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
ở chính quốc và ở các nước tư bản. Đó là nước Nga Xôviết, là Liên Xô và sau này mở rộng
ra tất cả các nước xã hội chủ nghĩa khác. Đó là phong trào đấu tranh vì hòa bình , độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới. Người đặc biệt coi trọng xây dựng
khối đoàn kết Việt – Miên – Lào, ba nước cùng cảnh ngộ thuộc địa trên bán đảo Đông Dương
trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thực dân. Trong kháng chiến chống chủ nghĩa
đế quốc thực dân, tư tưởng Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc hình thành ba tầng Mặt
trận: 1) Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; 2) Mặt trận đoàn kết Việt – Miên – Lào; 3) Mặt trận
nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược. Đây thực sự là sự phát
triển rực rở nhất và thắng lợi to lớn nhất của tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh.
Như vậy là từ đại đoàn kết dân tộc đi đến đại đoàn kết quốc tế; đại đoàn kết dân tộc phải
là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế. Nếu đại đoàn kết dân tộc là một trong những
nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, thì đoàn kết quốc tế cũng là một nhân
tố hết sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn của sự
nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Những luận điểm trên đây tạo thành nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc. Những luận điểm ấy đã được hình thành, từng bước được hoàn chỉnh trong tiến trình
cách mạng Việt Nam và đã được thực tiễn cách mạng kiểm nghiệm.
CHƯƠNG III:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC VÀ THỰC TIỄN CÁCH
MẠNG VIỆT NAM.
1. Khối đại đoàn kết dân tộc được xây dựng ngày càng rộng rãi và bền vững
14
Thực tiễn cách mạng Việt nam trên 70 năm qua đã chứng minh hùng hồn sức sống kì
diệu và sức mạnh vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Đại đoàn kết dân
tộc, từ chỗ là tư tưởng của lãnh đạo trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối chiến lược của
đảng Cộng sản Việt Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa.Tư tưởng đó đã thấm sâu vào tư tưởng tình cảm của tất cả những
người Việt Nam yêu nước và biến thành hành động cách mạng của hàng triệu,hang triệu con

người, tạo thành sức mạnh vô địch trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ
tổ quốc.
Tính chất rộng rãi của khối đại đoàn kết dân tộc thể hiện qua việc mở rộng biên độ tập
hợp mọi giai tầng xã hội, mọi ngành giới,lứa tuổi, tôn giáo, dân tộc, chính kiến, đảng phái, tổ
chức và cá nhân vào mẳ trạn dân tộc thống nhất. Tính bền vững của khối đại đoàn kết dân
tộc biểu hiện qua việc củng cố khối liên minh công nhân – nông dân- lao đọng trí óc và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sự thật lịch sử đã chứng tỏ rằng Mặt trận dân tộc
thống nhất càng rộng rãi thì liên minh công nhân-nông dân- lao động trí óc càng mạnh, sự
lãnh đạo của Đảng càng vững; và ngược lại, khối liên minh công – nông – trí thức càng được
củng cố, sự lãnh đạo của đảng càng được tăng cường thì mặt trận dân tộc thống nhất càng có
thể mở rộng và sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc càng được nhân lên to lớn hơn.
Lịch sử cách mạng Việt Nam hơn nửa thế kỉ qua cho thấy, lúc nào, nơi nào tư tưởng đại
đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được quán triệt và thực hiện đúng, thì khi đó, nơi đó cách
mạng phát triển mạnh mẽ và giành được thắng lợi; lúc nào, nơi nào xa rời tư tưởng đó thì khi
đó, nơi đó cách mạng bị trở ngại và tổn thất.
Đánh giá về Mặt trận dân tộc thống nhât, năm 1962 Hồ Chí Minh đã nêu rõ:
“Đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm cách mạng tháng Tám thành
công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng lợi, lập lại hòa bình
ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền bắc.
Đoàn kết trong mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta đã giành thắng lợi trong công
cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc.”
15
Về mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam,Người đã khẳng định: “Một mặt trận của nhân
dân đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi là một lự lượng tất thắng. Hiện nay…đồng bào ta ở miền
Nam cũng có “Mặt trận dân tộc giải phóng” với chương trình hoạt động thiết thực và phù
hopwj với nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Do đó, có thể đoán rằng đồng bào miền
nam nhất định sẽ thắng lợi, nước nhà nhất định sẽ thống nhất, Nam Bắc nhất định sẽ sum
họp một nhà”.

Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc miền Bắc và trong Mặt trận dân tộc giải phóng miền
Nam, nhân dân cả nước ta đã thực hiện được di chúc của Bác Hồ: đánh cho Mỹ cút, đánh
cho Ngụy nhào, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Sau khi Tổ quốc được
thống nhất, Mặt trận tổ quốc Việt Nam đã đoàn kết toàn dân bước vào giai đoạn mới- cả
nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Theo quan điểm của chủ tịch Hồ Chí minh, vấn đề dân tộc không chỉ là vấn đề của cách
mạng giải phóng dân tộc, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, mà còn là vấn đề của cahcs
mạng xã hội chủ nghĩa. Dân tộc và tôn giáo là hai vấn đè lớn vẫn còn tồn tại lâu dài, không
thể giải quyết trong một thời gian ngắn theo những mong chủ quan và những phương pháp,
cách thức không phù hợp. Điều này đã được Hồ Chí Minh phân tích từ rất sớm, xuất phát từ
tực tiễn Việt Nam, từ sự hiểu biết sâu sắc dân tộc và đất nước mình. Đây thực sự là sự phân
biệt giữa quan điểm giai cấp đúng đắn của chủ nghĩa Mác- Lênin với quan điểm của giai cấp
lệch lạc, “tả khuynh” , đã dẫn đến những tổn thất không nhỏ cho cách mạnh ở nhiều nước.
Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của mình, Người đã dày công xây dựng, vun
đắp cho sự lớn mạnh và sự phát triển của mặt trận dân tộc thống nhất, tăng cường sự ảnh
hưởng của Mặt trận đối với cách mạng Việt Nam. Đánh giá vai trò của mặt trận không chỉ
trong quá khứ mà còn xa về tương lai, Người đã nêu rõ: “Trong cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân cũng như trong cachs mạng xã hội chủ nghĩa, Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn là
một trong những lực lương to lớn của cách mạng Việt Nam”.
Tại Đại hội thống nhât Việt Minh – Liên Việt ( ngày 3-3-1951) Người đã phát biểu:
“ Tôi rất sung sướng được lãnh cái trách nhiệm kết thúc lễ khai mạc của đai hội Liên
Việt – Việt Minh thống nhất.
Lòng sung sướng ấy là chung của cả toàn dân, của cả Đại hội, nhưng riêng cho tôi là một
sự sung sướng không thể tả.Một người đã cùng các vị tranh đấu trong bấy nhiêu năm cho
16
khối đại đoàn kết toàn dân. Hôm nay trông thấy rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết quả
và gốc rễ nó dâng ăn sâu lan rộng khắp toàn dân, và nó có một cái tương lai “ trường xuân
bất lão’. Vì vậy cho nên long tôi sung sương vô cùng”.
Người đã nói lên không chỉ niềm vui vô hạn trước sự lớn mạnh của mặt trận dân tộc
thống nhất, mà còn là sự cần thiết phải mở rộng và củng cố Mặt trận, cũng như niềm tin vào

sự phát triển bền vững của khối đại đoàn kết dân tộc lâu dài về sau. Điều này đã được thể
hiện trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt nam, khi Hồ Chí Minh còn sống, cũng như sau
khi Người đã mất.
2. Từ khi cả nước Việt Nam thống nhất bước vào giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa,
bước vào thời kì đổi mới, Đảng Cộng Sản VIệt Nam đã vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
đại đoàn kết dân tộc phù hợp với tình hình mới. Đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được đảng
coi là một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng hang đầu trong sự nghiệp xây dựng,
phát triển đất nước. Qua sáu Đại hội đại biểu toàn quốc của đảng( Đại hội IV – 1976, Đại hội
V – 1981, Đại hội VI – 1986, Đại hội VII – 1991, Đại hội VIII – 1996 ), Đại hội IX (2001)
và nhiều hội nghị của ban chấp hành trung ương, từ năm 1976 đến nay, các Nghị quyết của
Đảng đều toát lên những tư tưởng chủ đạo là :
– Phải khơi dậy và phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc, đặt lợi ích chung của
dân tộc, của đất nước và của con người lên hàng đầu, lấy nó làm cơ sở để xây dựng các chủ
trương, chính sách kinh tế – xã hội; nếu trước kia sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc là sức
mạnh để chiến thắng giặc ngoại xâm thì bây giờ sức mạnh ấy phải lầ sức mạnh để chiến
thắng nghèo nàn, lạc hậu.
– Phải xuất phát từ lợi ích dân tộc mà mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi
khả năng có thể tranh thủ để xây dựng và phát triển đất nước.
Những tư tưởng chủ đạo trên đây đã thể hiện nhất quan trong chủ trương, chính sách của
đảng và nhà nước ta trong những năm đổi mới:
– Về chính trị, tư tưởng: Đảng nêu cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc, mở rộng Mặt trận
dân tộc thống nhất, chủ trương xóa bỏ thiên kiến, mặc cảm, hận thù trong quá khứ; tập hợp
đoàn kết mọi lực lượng, mọi người Việt Nam ở trong nước và định cư ở nước ngoài vào sự
nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, lấy liên minh công – nông – trí thức làm nòng cốt của
khối đại đoàn kết dân tộc.
17
– Về kinh tế – xã hội : khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, xác lập quyền làm
chủ của người lao động trong lĩnh vực kinh tế, khuyến khích làm giàu chính đáng theo pháp
luật, đồng thời thực hiện các chính sách “ đền ơn đáp nghĩa” , “ xóa đói giảm nghèo”.
– Về đối ngoại : thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa

phương hóa quan hệ đối ngoại theo phương châm “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các
nước vì hòa bình, độc lập, hợp tác và phát triển”.
Nhận thức tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề đại đoàn kết dân tộc, ngày 27-11-1993, Bộ
Chính trị Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa VII đẫ ra nghị quyết 07/NQ-TW “ Về đại
đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất”. Nghị quyết này đã phản ánh
tập trung sự kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong sự
nghiệp đổi mới. Tại đại hộ đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, vấn đề đại đoàn kết dân
tộc đã được đặt ở một tầm cao mới, nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân trong thời kì công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Ngày 26-6-1999, lần đầu tiên Luật về mặt trận tổ quốc Việt Nam đã được ban hành,
trong đó khẳng định :
Mặt trận Tổ quốc Viêt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, nơi
hiệp thương, phối hợp và thong nhất hành động của các thành viên, góp phần giữ vững độc
lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu , nước mạnh, xã hội công bằng văn
minh.
Đây thực sự là bước phát triển mới của mặt trận dân tộc thống nhất, của khối đại đoàn
kết toàn dân để chuẩn bị đưa đất nước tiến vào thế kỉ XXI.
3. Ở thời điểm dân tộc ta đang bước vào thế kỉ XXI, những thời cơ và thách thức đan xen
nhau đang thường xuyên tác động đến khối đại đoàn kết dân tộc. Hơn lúc nào hết, thực tiễn
đát nước đòi hỏi chúng ta phải quán triệt những quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc; phải vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển những quan điểm ấy, phù hợp với
những biến đổi của tình hình mới.
– Đại đoàn kết dân tộc trong thời kì hiện nay phải được củng cố và phát triển:
18
+ Nhằm rửa được cái nhục đói nghèo, lạc hậu, cái nhục tụt hậu xa hơn về kinh tế, về
khoa học, kỹ thuật và công nghệ so với các nước trong khu vực và trên thế giới; thực hiện
được điều mong muốn của Bác Hồ làm cho đất nước ta có thể “ Sánh vai với các cường quốc

năm châu”, là “xây dựng một nước Viêt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ , giàu
mạnh”; hay như Đảng ta đã nêu mục tiêu là : “dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ
văn minh”.
+ Nhằm khơi dậy tinh thần tự tôn dân tộc, quyết tâm chấn hưng đất nước, không bỏ lỡ
thời cơ, vận hội, không chậm chạp trong khi thế giới đang biến đổi theo gia tốc, phát huy
tinh thần tự lực tự cường, đẩy lùi mọi nguy cơ, vượt qua mọi thách thức.
– Đại đoàn kết dân tộc trong điều kiện thực hiện một nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa đòi hỏi một mặt phát huy được tính năng động của mỗi người, mỗi bộ phận
để mọi việc từ lãnh đạo, quản lí, đến sản xuất kinh doanh, hoc tập và lao động có năng suất,
chất lượng hiệu quả ngày càng cao; mặt khác phải khắc phục được những tiêu cực của kinh
tế thị trương, đặc biệt là tâm lí chạy theo đồng tiền, cạnh tranh không lành mạnh, làm phai
nhạt truyền thống đoàn kết, tình nghĩa tương thân tương ái của dân tộc và của Đảng.
Kinh tế thị trường dù theo định hướng xã hội chủ nghĩa cũng dẫn đến những thay đổi
trong phân tầng xã hội. Vì vậy chúng ta chấp nhận kinh tế tư bản tư nhân nhưng không thể
hình thành giai cấp bóc lột mới, khuyến khích làm giàu chính đáng nhưng không đẻ phân
cực hai đầu, phát triển kinh tế đồng thời giải quyết thỏa đáng chính sách xã hội và mối quan
hệ giữa ba lợi ích : xã hội, tập thể, cá nhân, đảm bảo đời sống của người lao động không
ngừng được cải thiện và nâng cao. Dân giàu có nghĩa là đời sống của mỗi người dân ngày
càng khá hơn, giàu hơn. Đấy là cơ sở kinh tế để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn
dân.
Đại đoàn kết dân tộc đòi hỏi phải xây dựng một đảng lãnh đạo thật sự trong sạch , vững
mạnh, một chế độ do nhân dân lam chủ, một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, một
hệ thống chính trị tiên tiến có hiệu quả, hiệu lực.
Phải chống cho được các tệ nạn xã hội, nhất là các tệ nạn tham nhũng, quan lieu, vi
phạm quyền làm chủ của nhân dân, những ý nguyện chính đáng của nhân dân không được
lắng nghe, những oan ức của nhân dân không được kịp thời giải quyết, làm cho lòng dân
không yên.
19
Tiếp tục đổi mới chính sách gai cấp,chính sách xã hội, đặc biệt coi trọng đổi mới, hoàn
thiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo; chính sách đối với tri thức, chính sách đối với

cộng đồng người Việt ở nước ngoài, tập hợp đến mức rộng rãi mọi nhân tài, vật lực vào sự
nghiệp công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước.
Luật mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải được thực hiện nghiêm chỉnh, để Mặt trận xứng
đáng là một lực lượng to lớn, mạnh mẽ của hệ thống chính trị. Tiếp tục đổi mới bộ máy và
sự hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng, loại trừ được các bệnh “hành chính
hóa” hoặc “hình thức chủ nghĩa” vẫn thường làm giảm vai trò của các tổ chức này.
Đại đoàn kết dân tộc trong điều kiện thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế, đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa kinh tế
ngày càng phát triển, đòi hỏi phải củng cố sự đoàn kết với phong trào cách mạng các nước,
đồng thời phải nắm vững bài học đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh: “Cứng rắn về nguyên
tắc, mềm dẻo về sách lược”, “ Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, luôn luôn giương cao ngọn cờ hòa
bình, độc lập,hợp tác và phát triển.
Đại đoàn kết dân tộc là yếu tố nội sinh có ý nghĩa quyết định. Đại đoàn kết dân tộc trước
hết là nhằm tạo lực và thế để vươn ra bên ngoài; ngược lại, mở cửa, hội nhập quốc tế là
nhằm làm cho lực và thế trong nước ngày càng tăng them.
Sự vật luôn luôn vận động và phát triển. Hoàn cảnh sẽ không ngừng đổi thay theo các
quy luật khách quan. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc sẽ ngày càng phát triển,
hoàn thiện cùng với thực tiễn đang biến đổi của đất nước trên con đường đi vào thế kỉ XXI.
Tư tưởng ấy vẫn là ngọn nguồn tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam để đi tới
thắng lợi hoàn toàn và triệt để của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
CHƯƠNG IV:
SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT DÂN TỘC CỦA ĐẢNG
TA VÀ LIÊN HỆ BẢN THÂN.
1. Thực trạng chung.
20
Hiện nay, nước ta đã thu được những thành tựu cơ bản. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt
Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Việt Nam đang chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế, mở cửa sẵn sàng là bạn là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế
phấn đấu vì hòa bình độc lập và phát triển.

Xem thêm: Hàm Like Trong Excel – Các Hàm Xử Lý Chuỗi Trong Excel Thường Dùng

Trong những năm đổi mới, nền kinh tế của đất nước tiếp tục phát triển với nhịp độ cao so
với các nước khác trong khu vực. Tình hình chính trị của đất nước luôn luôn giữ được ổn
định. Tình hình xã hội có tiến bộ, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân không ngừng
được cải thiện. Vị thế của đất nước không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Thế và
lực của đất nước ta mạnh lên rất nhiều so với những năm trước đổi mới cho phép nước ta
tiếp tục phát huy nôi lực kết hợp với tranh thủ ngoại lực để phát triển nhanh và bền vững,
trước mắt phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản làm cho Việt Nam trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại; nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu
hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc
tế tiếp tục được nâng cao.
Mặt khác, Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn và thách thức lớn đan xen nhau.
Sự nghiệp đổi mới của nước ta trong những năm tới, có cơ hội để phát triển của đất nước.
Đó là lợi thế so sánh để phát triển do nhiều yếu tố, trong đó yếu tố nội lực là hết sức quan
trọng. Những cơ hội tạo cho đất nước ta có thể đi tắt, đón đầu, tiếp thu nhanh những thành
tựu của cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới. Mặt khác, chúng ta rút ra được
nhiều bài học từ cả những thành công và yếu kém của gần hai chục năm tiến hành sự nghiệp
đổi mới để đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Những thành tựu và thời cơ đã cho phép nước ta tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa Việt Nam trở thành một nước
công nghiệp, tiếp tục ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản
xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy hơn nữa nội lực.
Tuy vậy, chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức, nguy cơ hay những khó khăn
lớn trên con đường phát triển của đất nước. Ví dụ như nạn tham nhũng, tệ quan liêu cũng
như sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
21
Đảng viên đã và đang cản trở việc thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách
của đảng và nhà nước, gây bất bình và làm giảm niềm tin trong nhân dân. Các thế lực phản
động không ngừng tìm mọi cách thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, chống phá sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.Mặt khác, các thế

lực

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Tiểu luận