tiểu luận triết học về âm dương ngũ hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (510.78 KB, 41 trang )

Đang xem: Tiểu luận triết học về âm dương ngũ hành

Âm dương Ngũ hành trong Y học
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

ĐỀ TÀI SỐ 5:
SVTH: TRẦN MINH SANG
SỐ THỨ TỰ: 91
NHÓM: 6
LỚP: CAO HỌC ĐÊM 1 – K20
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 1
TP.HCM 05-2011
Âm dương Ngũ hành trong Y học
PHẦN MỞ ĐẦU 4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 4
1.1. Thế nào là "Âm dương": 5
1.1. Thế nào là "Âm dương": 5
1.2. Thuyết Âm – Dương: 5
1.2. Thuyết Âm – Dương: 5
1.3. Thế nào là Ngũ hành: 5
1.3. Thế nào là Ngũ hành: 5
1.4. Thuyết Ngũ hành: 6
1.4. Thuyết Ngũ hành: 6
1.5. Mối quan hệ giữa Âm dương và Ngũ hành: 7
1.5. Mối quan hệ giữa Âm dương và Ngũ hành: 7
CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH ĐỐI VỚI LĨNH
VỰC Y HỌC CỦA PHƯƠNG ĐÔNG 9
2.1. Nguồn gốc Y học Phương Đông: 9
2.1. Nguồn gốc Y học Phương Đông: 9
2.2. Sự vận dụng thuyết Âm dương – Ngũ hành vào lĩnh vực y học của người Phương Đông: 9

2.2. Sự vận dụng thuyết Âm dương – Ngũ hành vào lĩnh vực y học của người Phương Đông: 9
2.2.1.Âm dương Ngũ hành và Cơ thể: 9
2.2.1. Âm dương Ngũ hành và Cơ thể: 9
2.2.2.Âm dương Ngũ hành và Sinh lý(3): 11
2.2.2. Âm dương Ngũ hành và Sinh lý(3): 11
2.2.3.Âm dương Ngũ hành và Bệnh lý: 13
2.2.3. Âm dương Ngũ hành và Bệnh lý: 13
2.2.4.Âm dương Ngũ hành và Chẩn bệnh: 15
2.2.4. Âm dương Ngũ hành và Chẩn bệnh: 15
2.2.5.Âm dương Ngũ hành và Dược liệu: 17
2.2.5. Âm dương Ngũ hành và Dược liệu: 17
2.2.6.Âm dương Ngũ hành và Châm Cứu: 18
2.2.6. Âm dương Ngũ hành và Châm Cứu: 18
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 2
Âm dương Ngũ hành trong Y học
2.2.7.Âm dương Ngũ hành và Điều trị: 20
2.2.7. Âm dương Ngũ hành và Điều trị: 20
2.2.8.Âm dương Ngũ hành và Phòng Bệnh: 21
2.2.8. Âm dương Ngũ hành và Phòng Bệnh: 21
2.2.9.Điều hòa Âm dương Ngũ hành: 22
2.2.9. Điều hòa Âm dương Ngũ hành: 22
CHƯƠNG 3: ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH VÀ BIỆN CHỨNG TRONG Y HỌC 24
3.1. Những biểu hiện của Kim khí 24
Phương Tây, mùa Thu, buổi chiều tối là biểu hiện của thiếu âm(theo đồ Thái cực), Kim khí là nguồn năng
lượng xuất phát từ thiếu âm 24
3.1.1. Về cơ thể 24
3.1.2. Về chức năng 25
3.2. Biện chứng trong ngoại khoa Đông y 25
KẾT LUẬN 27
PHỤ LỤC 2: CHỨNG ÂM HỎA THƯƠNG 29

PHỤ LỤC 3: CÁCH SỬ DỤNG THUỐC THEO HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG 30
PHỤ LỤC 4: BỆNH VỀ PHẾ 33
PHỤ LỤC 5: BIỂU ĐỔ TỒNG KẾT ÂM DƯƠNG 33
PHỤ LỤC 6: BIỂU ĐỔ TỒNG KẾT NGŨ HÀNH TRONG Y HỌC 34
PHỤ LỤC 7: HÌNH VẼ & BIỂU TƯỢNG 35
PHỤ LỤC 8: TRÍCH DẪN 38
TÀI LIỆU THAM KHẢO 39
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 3
Âm dương Ngũ hành trong Y học
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn Đề tài:
Kể từ sau khi xuất hiện tác phẩm “Hoàng Đế Nội Kinh Tố Vấn” và với ảnh
hưởng mạnh mẽ của tác phẩm này, thuyết Âm dương – Ngũ hành ngày càng được
các nhà tư tưởng phát triển và vận dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có
lĩnh vực Y học ở Trung Quốc và một số nước phương Đông khác. Y học cổ truyền
phương Đông đã dựa trên cơ sở lý luận thuyết Âm dương – Ngũ hành để phòng trị
bệnh và nâng cao sức khỏe cho nhân dân. Chính vì thế, việc tìm hiểu học thuyết Âm
dương – Ngũ hành là một việc cần thiết để lý giải những đặc trưng của triết học cũng
như nền Y học Phương Đông.
2. Mục tiêu của Đề tài:
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là: trên cơ sở làm sáng tỏ thuyết Âm dương
Ngũ hành của triết học Phương Đông và ảnh hưởng của nó đối với nền y học, đề tài
còn đi sâu nghiên cứu các ứng dụng thực tế của nó trong việc điều trị và chẩn bệnh
hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Thuyết Âm dương – Ngũ hành và sự ảnh hưởng của nó đến nền y học
Phương Đông.
4. Phương Pháp Nghiên Cứu:
4.1. Cơ sở phương pháp luận:
Đề tài được triển khai dựa trên nội dung của thuyết Âm dương – Ngũ hành và

giá trị của nền y học Phương Đông.
4.2. Các phương pháp cụ thể:
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày đề tài, các phương pháp nghiên cứu
đã được sử dụng như: Phương pháp lịch sử, Phương pháp phân tích tổng hợp,…
5. Kết cấu của đề tài: Gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Ảnh hưởng của Âm dương Ngũ hành đối với Y học
Chương 3: Âm dương Ngũ hành và biện chứng trong Y học
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 4
Âm dương Ngũ hành trong Y học
1.1. Thế nào là "Âm dương":
Âm và Dương theo khái niệm cổ sơ không phải là vật chất cụ thể, không gian
cụ thể mà là thuộc tính của mọi hiện tượng, mọi sự vật trong toàn vũ trụ cũng như
trong từng tế bào, từng chi tiết. Âm và Dương là hai mặt đối lập, mâu thuẫn thống
nhất, trong Dương có mầm mống của Âm và ngược lại. (Hình 1- Trang)
1.2. Thuyết Âm – Dương:
Từ thực tế cuộc sống, người Trung Quốc cổ đại cho rằng, bản thân vũ trụ,
cũng như vạn vật trong nó, được tạo thành nhờ vào sự tác động lẫn nhau của hai lực
lượng đối lập nhau là Âm và Dương. Và mọi tai họa trong vũ trụ sở dĩ xảy ra cũng là
do sự không điều hòa được hai lực lượng ấy.
Âm là phạm trù đối lập với Dương, phản ánh những yếu tố (sự vật, hiện
tượng, tính chất, quan hệ …) và khuynh hướng như: giống cái, đất, mẹ, vợ, nhu,
thuận, tối, ẩm, phía dưới, bên phải, số chẵn, tĩnh, tiêu cực,…
Dương là phạm trù đối lập với Âm, phản ánh những yếu tố (sự vật, hiện
tượng, tính chất, quan hệ, …) và khuynh hướng như: giống đực, trời, cha, chồng,
cương, cường, sáng, khô, phía trên, bên trái, số lẻ, động, tích cực,…
Âm và Dương không chỉ phản ánh hai loại lực lượng mà còn phản ánh hai
loại khuynh hướng đối lập, không tách rời nhau, ôm lấy nhau, xoắn vào nhau; vì
vậy, trong Âm có Dương, và trong Dương có Âm. Đó cũng chính là sự thống nhất

giữa cái động và cái tĩnh, trong động có tĩnh và trong tĩnh có động và chúng chỉ
khác ở chỗ, bản tính của Dương là hiếu động, còn bản tính của Âm là hiếu tĩnh. Do
thống nhất, giao cảm với nhau mà Âm và Dương có động, mà động thì sinh ra biến;
biến tới cùng thì hóa để được thông; có thông thì mới tồn vĩnh cửu được. Như vậy,
sự thống nhất và tác động của hai lực lượng, khuynh hướng đối lập Âm và Dương
tạo ra sự sinh thành biến hóa của vận vật; nhưng vạn vật khi biến tới cùng thì quay
trở lại cái ban đầu.
Âm và Dương tác động chuyển hóa lẫn nhau; Dương cực thì Âm sinh, Dương
tiến thì Âm lùi, Dương thịnh thì Âm suy…; và ngược lại.
1.3. Thế nào là Ngũ hành:
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 5
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Theo thuyết duy vật cổ đại, tất cả mọi vật chất cụ thể được tạo nên trong thế
giới này đều do năm yếu tố ban đầu là “nước, lửa, đất, cây cỏ và kim loại” tức Ngũ
hành “thủy, hỏa, thổ, mộc, kim”. (Hình 2- Trang)
Ngũ hành sinh: thuộc lẽ thiên nhiên, nhờ nước cây xanh mọc lớn lên (thủy
sinh mộc), cây cỏ làm mồi nhen lửa đỏ (mộc sinh hỏa, tro tàn tích lại đất vàng thêm
(hỏa sinh thổ), lòng đất tạo nên kim loại trắng (thổ sinh kim), kim loại vào lò chảy
nước đen (kim sinh thủy).
Ngũ hành tương khắc: lẽ xưa nay rễ cỏ đâm xuyên lớp đất dày (mộc khắc
thổ), đất đắp đê cao ngăn nước lũ (thổ khắc thủy), nước dội nhiều nhanh dập lửa
ngay (thủy khắc hỏa), lửa lò nung chảy đồng sắt thép (hỏa khắc kim), thép cứng rèn
dao chặt cỏ cây (kim khắc mộc).
1.4. Thuyết Ngũ hành:
Học thuyết Ngũ hành chủ yếu nói về mối quan hệ phức tạp thể hiện ở quy
luật sinh – khắc – chế – hoá và bổ xung cho thuyết Âm Dương hoàn bị hơn.
Tinh thần cơ bản của thuyết Ngũ hành bao gồm hai phương diện giúp đỡ
nhau gọi là tương sinh và chống lại nhau gọi là tương khắc. Trên cơ sở sinh và khắc
lại kết hợp với hiện tượng chế hoá, tương thừa, tương vũ nhằm biểu thị mọi sự biến
hoá phức tạp của sự vật.

Luật tương sinh: Tương sinh có nghĩa là giúp đỡ nhau để sinh trưởng, đem
Ngũ hành liên hệ với nhau thì thấy 5 hành có quan hệ xúc tiến lẫn nhau, nương tựa
lẫn nhau.
Mộc sinh Hoả = Can sinh Tâm
Hoả sinh Thổ = Tâm sinh Tỳ
Thổ sinh Kim = Tỳ sinh Phế
Kim sinh Thuỷ = Phế sinh Thận
Thuỷ sinh Mộc = Thận sinh Can.
Trong luật tương sinh của Ngũ hành còn bao hàm ý nữa là hành nào cũng có
quan hệ về hai phương diện: Cái sinh ra nó và cái nó sinh ra, tức là quan hệ mẫu tử.
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 6
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Trong quan hệ tương sinh lại có quan hệ tương khắc để biều hiện cái ý thăng bằng,
giữ gìn lẫn nhau.
Luật tương khắc:
Mộc khắc Thổ = Can khắc Tỳ
Thổ khắc Thuỷ = Tỳ khắc Thận
Thuỷ khắc Hoả = Thận khắc Tâm
Hoả khắc Kim = Tâm khắc Phế
Kim khắc Mộc = Phế khắc Can
Tương khắc có nghĩa là ức chế và thắng nhau, trong tình trạng bình thường sự
tương khắc có tác dụng duy trì sự thăng bằng, nhưng nếu tương khắc thái quá thì
làm cho sự biến hoá trở lại khác thường. Trong tương khắc, mỗi hành cũng lại có hai
quan hệ: giữa cái thắng nó và cái nó thắng. Hiện tượng tương khắc không tồn tại đơn
độc; trong tương khắc đã có ngụ ý tương sinh, do đó vạn vật tồn tại và phát triển.
Luật chế hóa: Chế hoá là chế ức và sinh hoá phối hợp với nhau. Trong chế
hoá bao gồm cả hiện tượng tương sinh và tương khắc. Hai hiện tượng này gắn liền
với nhau nhằm biểu thị sự cân bằng trong vạn vật; nhưng nếu có hiện tượng sinh
khắc thái quá hoặc không đủ thì sẽ xảy ra sự biến hoá khác thường. Quy luật chế hoá
Ngũ hành là:

− Mộc khắc thổ, thổ sinh kim, kim khắc mộc.
− Hỏa khắc kim, kim sinh thủy, thủy khắc hỏa.
− Thổ khắc thủy, thủy sinh mộc, mộc khắc thổ.
− Kim khắc mộc, mộc sinh hỏa, hỏa khắc kim.
− Thủy khắc hỏa, hỏa sinh thổ, thổ khắc thủy.
1.5. Mối quan hệ giữa Âm dương và Ngũ hành:
Thời Chiến quốc, Trâu Diễn đã kết hợp hai học thuyết này để giải thích các
sự vật, sự việc, qua đó giúp lĩnh vực khoa học tự nhiên được phát triển. Cuối thời
Chiến Quốc, đầu thời Tần Hán có hai xu hướng khác nhau bàn về sự kết hợp giữa
thuyết Âm dương và thuyết Ngũ hành.
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 7
Âm dương Ngũ hành trong Y học
− Hướng thứ nhất: Đổng Trọng Thư kết hợp Âm dương, Ngũ hành giữa
con người và tự nhiên có một mối quan hệ thần bí.
− Hướng thứ hai: Tác phẩm "Hoàng Đế Nội kinh" đã sử dụng triết học
Âm dương Ngũ hành làm hệ thống lý luận của y học.
Từ đó, các nhà y học phương Đông đã vận dụng hai học thuyết này như một
lý luận cơ bản cho nền y học phương Đông. Các nhà y học phương Đông cho rằng:
“Cơ thể con người có rất nhiều bộ phận (tạng phủ kinh lạc ), mỗi bộ phận đều có
Dương và Âm lại được phân loại vào Ngũ hành, cho nên chỉ dùng riêng một học
thuyết để giải thích và phân tích vấn đề của con người có lúc sẽ không được toàn
diện. Chỉ khi nào kết hợp cả hai học thuyết thì mới có thể thu được kết quả đầy đủ.
Như Ngũ tạng, Lục phủ thì tạng là âm, phủ là dương, muốn giải thích sự phát triển
của tạng (phủ) thì dùng học thuyết Âm dương để thuyết minh. Nếu nói về quan hệ
sinh lý bệnh lý giữa tạng phủ thì dùng học thuyết Ngũ hành để thuyết minh vì giữa
ngũ tạng có quan hệ tương sinh tương khắc, hợp lại là quy luật chế hoá, tương thừa
tương vũ”.
(1)

Vì thế, Y học phương Đông cũng như các lĩnh vực khác đều phải theo Âm

dương để phân rõ Ngũ hành và theo Ngũ hành để phân biệt Âm dương. Họ đã vận
dụng kết hợp cả Âm dương, Ngũ hành khi bàn đến thực tế lâm sàng mới có thể phân
tích sâu sắc kỹ càng hơn về những vấn đề trong Y học và các lĩnh vực khác. Có thể
thấy trên cơ bản Âm dương hợp với Ngũ hành thành một khâu hoàn chỉnh, giữa Âm
dương với Ngũ hành có mối quan hệ không thể tách rời.
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 8
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Chương 2: ẢNH HƯỞNG CỦA THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ
HÀNH ĐỐI VỚI LĨNH VỰC Y HỌC CỦA PHƯƠNG ĐÔNG
2.1. Nguồn gốc Y học Phương Đông:
Đông y bắt nguồn từ lưu vực sông Hoàng Hà Trung Quốc đã dựng thành hệ
thống học thuật về nhận thức lý luận trong nền y học phương Đông: Âm dương, Ngũ
hành. Âm dương, Ngũ hành cân bằng thì cơ thể khỏe mạnh, việc chữa bệnh nhằm
lập lại trạng thái cân bằng của các yếu tố đó. Các nhà y học phương Đông dựa vào
hai học thuyết Âm dương và Ngũ hành đã dưa ra 3 học thuyết sau:
− Học thuyết vận khí lại được gọi là ngũ vận (mộc vận, hỏa vận, thổ vận,
kim vận, và thủy vận) lục khí (phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa), là học thuyết nghiên
cứu và tìm hiểu ảnh hưởng của biến đổi về thiên văn, khí tượng, khí hậu của giới tự
nhiên đối với sức khoẻ và bệnh tật của cơ thể. Học thuyết này là lịch pháp thiên văn
tính ra biến đổi khí hậu trong năm và quy luật xảy ra bệnh tật.
− Học thuyết tượng tạng, chủ yếu nghiên cứu về công năng sinh lý và biến
đổi bệnh lý của ngũ tạng (tâm, can, tì, phế, thận), lục phủ (ruột non, ruột già, dạ dày,
bàng quang, túi mật, tam tiêu) và (não, tủy, xương, mạch, mật, nữ tử bao).
− Học thuyết kinh lạc có liên quan chặt chẽ với học thuyết tượng tạng. Kinh
lạc là đường qua lại vận hành khí huyết trong cơ thể, có tác dụng nối liền bên trong
và bên ngoài, che phủ toàn thân. Dưới tình hình bệnh lý, công năng hệ thống kinh
lạc xảy ra biển đổi, sẽ xuất hiện triệu chứng bệnh và đặc chưng cơ thể tương ứng,
thông qua những biểu hiện này, có thể chẩn đoán bệnh tật tạng phủ trong cơ thể.
2.2. Sự vận dụng thuyết Âm dương – Ngũ hành vào lĩnh vực y học của
người Phương Đông:

2.2.1. Âm dương Ngũ hành và Cơ thể:
2.2.1.1. Âm dương và cơ thể:
a. Trên là Âm, dưới là Dương:
Theo cách phân chia này thì đầu là “Âm” và chân là “Dương”.
Theo các nhà nghiên cứu: Ở tư thế nằm, đầu thấp, chân cao sẽ dễ nhớ và tiếp
thu nhanh hơn, họ cho rằng vì máu dồn về não giúp não làm việc tốt hơn.
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 9
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Người khỏe mạnh, trên mát (âm), dưới ấm (dương), tức Thủy giao xuống
dưới, Hỏa giao lên trên, gọi là Thủy hỏa ký tế.
Ngược lại, khi bị bệnh thì trên nóng (dương) dưới lạnh (âm), tức là Thủy hỏa
không tương giao với nhau gọi là Thủy hỏa vị tế.
b. Bên trái là Dương, Bên phải là Âm:
Một cách tự nhiên, hầu như bao giờ chân trái cũng khởi động trước. Theo các
nhà nghiên cứu, khi chuyển động trái đất tạo nên 1 dòng điện gọi là địa từ lực lôi
cuốn mọi vật – địa từ lực này mang đặc tính âm. Theo nguyên tắc vật lý, 2 vật cùng
cực đẩy nhau, khác cực hút nhau. Lực của trái đất là Âm, do đó sẽ hút lực Dương, vì
thế có thể coi như chân trái mang đặc tính Dương. Điều này rất có giá trị trong việc
điều trị bằng châm cứu khi phải chọn huyệt để châm.
c. Trong (Bụng, Ngực) là Âm, Ngoài (Lưng) là Dương:
“Thiên Ngũ Tạng Sinh Thành Luận” ghi: "Phù ngôn chi Âm dương, Nội vi
Âm, ngoại vi Dương, Phúc vi Âm, Bối vi Dương" (Nói về Âm dương, trong thuộc
Âm, ngoài thuộc Dương, bụng thuộc Âm, lưng thuộc Dương).
Ngay từ trong bào thai, sự sắp xếp theo thứ tự trên cũng khá rõ: Bào thai
nam, Dương khí tụ ở lưng nên thường quay lưng ra, do đó bụng người mẹ thường có
dạng tròn và cứng. Trái lại, bào thai nữ, Âm khí tụ ở ngực nên thường quay mặt ra
ngoài, do đó bụng người mẹ thường có dạng hình bầu dục (gáo nước) và mềm.
d. Âm dương và Tạng Phủ
(2)
:

“Thiên Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận" ghi: "Lục phủ giai vi dương, Ngũ
tạng giai vi âm" (Lục phủ thuộc dương, Ngũ tạng thuộc âm). Như thế Tâm, Can, Tỳ,
Phế, Thận thuộc Âm, còn Tiểu Trường, Đởm, Vị, Đại Trường, Bàng quang, Tam
Tiêu thuộc Dương. Tâm Bào, được coi như 1 tạng mới, nên thuộc âm.
Có thể tạm hiểu như sau: theo "Kinh Dịch", mỗi vật thể, hiện tượng đều do 2
yếu tố: THỂ (hình thể) và DỤNG (công dụng, chức năng) tạo nên. Xét một vật nào
đó, có thể có hình dạng (thể) là Âm nhưng lại có công dụng là Dương hoặc ngược
lại, “Thể” là Dương nhưng “Dụng” là Âm.
2.2.1.2. Ngũ hành và Tạng phủ:
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 10
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Nếu đem đồ hình Thái cực, áp dụng vào khuôn mặt, nhìn từ sau ra trước, ta
thấy:
− Trán thuộc Tâm.
− Cằm thuộc Thận.
− Má bên trái thuộc Can.
− Má bên phải thuộc Phế.
− Mũi thuộc Tỳ (trung ương).
Việc phân chia này giúp ích rất nhiều trong việc chẩn bệnh. Thí dụ: Nhìn thấy
dấu hiệu báo bệnh ở vùng cằm có thể nghĩ đến bệnh lý ở thận,
Nếu xếp đồ hình dọc theo cơ thể con người ta thấy:
− Từ ngực trở lên thuộc Tâm.
− Từ thắt lưng xuống thuộc Thận.
− Nửa bên trái thuộc Can.
− Nửa bên phải thuộc Phế.
− Bụng thuộc Tỳ.
Sự phân chia này giúp rất nhiều trong việc chẩn bệnh, Thí dụ: Có nhiều người
chỉ cảm thấy lạnh nửa bên người,
Những người liệt nửa bên trái thường kèm theo đau nửa đầu, chảy nước mắt
sống (những biểu hiện của Can) Liệt nửa phải thường kèm theo nói khó khăn,

khó đi cầu (những biểu hiện của Phế, Đại trường)
2.2.2. Âm dương Ngũ hành và Sinh lý
(3)
:
2.2.2.1. Âm dương và Sinh lý:
Sự thay đổi của âm khí và dương khí trong cơ thể con người phụ thuộc vào
thiên nhiên. Sự biến đổi này sẽ gây ra những chuyển biến về mặt tâm, sinh lý của
con người; và tình trạng sức khỏe của con người sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất vào thời
điểm giao, đặc biệt là những người mang sẵn bệnh tật trong cơ thể trở nên yếu ớt
hơn, bệnh dễ phát tác hơn.
− Mùa xuân là mùa dương khí trong trời đất bắt đầu hội tụ và tăng lên.
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 11
Âm dương Ngũ hành trong Y học
− Mùa hè là mùa dương khí ở mức cực đại và âm khí yếu.
− Mùa thu là thời điểm âm khí trong trời đất và trong cơ thể con người
bắt đầu có sự thay đổi lên cao dần, trong khi đó mức dương khí thấp dần.
− Mùa đông là mùa âm khí ở mức cực đại và dương khí ở cực tiểu.
2.2.2.2. Ngũ hành và Sinh lý:
a. Quan niệm cổ truyền:
Ứng dụng Ngũ hành vào mặt sinh lý con người là đem ngũ tạng sánh với Ngũ
hành, dựa vào đặc tính sinh lý của ngũ tạng để tìm ra sự liên hệ với Ngũ hành.
Can và Hành mộc: tính của cây gỗ thì cứng cỏi giống như chức năng của
Can là 1 vị tướng, vì thế dùng hành Mộc ví với can.
Tâm và Hành hỏa: Lửa cháy thì bốc lên, giống như Tâm bốc lên mặt và
lưỡi, vì thế dùng hành Hỏa ví với Tâm.
Tỳ và Hành thổ: Đất là mẹ đẻ của muôn vật giống là con người sinh tồn
được là nhờ vào các chất dinh dưỡng do Tỳ vị cung cấp, vì thế dùng Hành thổ ví với
Tỳ.
Phế và Hành kim: Kim loại thường phát ra âm thanh giống như con người
phát ra tiếng nói nhờ Phế, vì thế dùng hành Kim ví với Phế.

Thận và Hành thủy: Nước có tác dụng đi xuống, thấm nhuần mọi chỗ;
giống như nước uống vào, một phần thấm vào cơ thể, phần còn lại theo đường tiểu
bài tiết ra ngoài, vì vậy đem hành Thủy ví với Thận.
b. Quan điểm hiện đại:
Dựa theo công năng cơ thể, tìm sự tương ứng với hành nào đó trong Ngũ
hành để giải thích sự biến chuyển của Ngũ hành.
Hành Mộc và sự vận động: Đó là sự vận động của các cơ bắp, các sợi cơ ở
khắp cơ thể.
Hành Hỏa và sự phát nhiệt: Đó là sự sản sinh nhiệt năng do sự chuyển hóa
của các tế bào.
Hành Thổ và sự bài tiết: Đó là sự vận động đưa chất ra ngoài cơ thể.
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 12
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Hành Kim và sự hấp thụ: Đó là sự vận động thu hút các chất vào cơ thể.
Hành Thủy và sự tàng trữ: Đó là sự vận động tàng trữ các chất trong cơ thể
để dùng khi cần thiết.
c. Giữa 2 quan niệm cổ điển và hiện đại có 1 số điều khác biệt:
Nếu đứng về quan niệm cổ điển, mỗi hành chỉ ảnh hưởng đến một ngũ tạng.
Thí dụ: Can Mộc, Tâm Hỏa, Tỳ Thổ, Phế Kim và Thận Thủy.
Theo quan niệm hiện đại, mỗi hành đều ảnh hưởng và chi phối đến ngũ tạng.
Ngoài ra, mỗi hành đều có 2 mặt mâu thuẫn và thống nhất là Âm dương, do
đó ta có: Âm Mộc, Dương Mộc, Âm Hỏa, Dương Hỏa, Âm Thổ, Dương Thổ, Âm
Kim, Dương Kim, Âm Thủy, Dương Thủy. Việc phân biệt này sẽ giúp ích rất nhiều
trong việc chọn huyệt để điều trị thích hợp.
2.2.3. Âm dương Ngũ hành và Bệnh lý:
2.2.3.1. Âm dương và Bệnh lý:
a. Quá trình phát sinh bệnh:
Mỗi hiện tượng đều có 2 mặt: 1 Dương (hưng phấn) và 1 Âm (ức chế). Nếu 1
trong 2 tác động trên mạnh hoặc suy kém khác thường làm cho mất trạng thái quân
bình Âm dương, sẽ dẫn tới tình trạng bệnh lý gọi là thiên suy hoặc thiên thắng (Xem

hình 4, phụ lục 7 – Trang)
− Thiên Thắng: Dương thắng quá, gây chứng nhiệt (sốt, tiểu đỏ ). Âm thắng
gây chứng hàn (lạnh, tiêu chảy ).
− Thiên Suy: Dương hư (lão suy, hưng phấn, thần kinh giảm ). Âm hư (mất
nước, ức chế thần kinh giảm ).
Tuy nhiên, nếu Âm suy quá thì Âm bị bệnh sinh ra chứng nội nhiệt, gọi là
Âm hư sinh nội nhiệt. Nếu Dương suy quá thì Dương bị bệnh và sinh ra chứng hàn ở
ngoài, gọi là Dương hư sinh ngoại hàn.
Khi 1 mặt Âm hay Dương ngày càng thịnh và không ngừng phát triển về 1
phía đối lập, bệnh sẽ diễn biến theo hướng: Nhiệt quá hóa Hàn (nhiệt cực sinh hàn)
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 13
Âm dương Ngũ hành trong Y học
như sốt cao kéo dài gây mất nước Hoặc Hàn quá hóa nhiệt (Hàn cực sinh nhiệt)
như tiêu chảy, nôn mửa kéo dài gây mất nước, điện giải làm nhiễm độc thần kinh
gây sốt.
b. Hư chứng, Thực chứng:
Bệnh tật (sự rối loạn Âm dương) phát sinh ra do nhiều nguyên nhân: Dương
thực, Âm thực (hưng phấn) hoặc Dương hư, Âm hư (ức chế).
Thí dụ: triệu chứng sốt, chứng âm hư Hỏa thượng (Xem phụ lục 1 – Trang)
c. Âm dương thực giả:
Trên lâm sàng, nhiều hội chứng dễ gây lẫn lộn Âm dương, nếu không chẩn
bệnh 1 cách kỹ lưỡng, đó là các hội chứng chân giả.
− Dương cực tựa Âm: Do nhiệt độc tới chỗ cùng cực, phục vào trong cơ thể gây
ra người lạnh, hôn mê giống như âm chứng, chỉ khác ở chỗ là trong lạnh nhưng
không thích đắp ấm, thần khí tuy hôn mê nhưng sắc mặt vẫn tươi, mạch tuy Trầm
nhưng Hoạt và có lực  Khi trị liệu phải dùng thuốc Hàn.
− Âm cực tựa Dương: Do hàn tà đến chỗ cùng cực, đẩy Dương hỏa ở trong ra
ngoài, gây ra mình nóng, buồn phiền, khát nước, giống như Dương chứng nhưng chỉ
khác ở chỗ mình nóng mà thích đắp chăn ấm, miệng khát mà uống nước lạnh vào lại
mửa ra ngay. Mạch thường Trầm Tế, không lực  Khi trị liệu, phải dùng thuốc

nhiệt (ôn nóng), nếu dùng lầm thuốc hàn có thể gây nguy hiểm đến tính mạng.
d. Âm Thăng Dương Giáng:
Huyết thuộc Âm, phải thăng (đi lên), nếu huyết hư không đi lên được, phần
trên không được huyết nuôi dưỡng, gây chóng mặt, hoa mắt nguyên nhân do âm
hư, cần bổ âm.
Khí thuộc Dương, phải giáng (đi xuống), khí không làm tròn chức năng, thay
vì đi xuống lại đi lên, gọi là khí nghịch gây ra chứng hen suyễn, khó thở, nguyên
nhân do khí nghịch, cần điều chỉnh ở khí.
2.2.3.2. Ngũ hành và Bệnh lý:
Ứng dụng Ngũ hành vào bệnh lý, chủ yếu vận dụng quy luật Sinh Khắc,
Tương Thừa, Tương Vũ, Phản sinh khắc, để giải thích các quan hệ bệnh lý khi 1 cơ
quan, tạng phủ nào đó có sự xáo trộn gây ra mất thăng bằng: thái quá (hưng phấn)
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 14
Âm dương Ngũ hành trong Y học
hoặc bất cập (ức chế). Ngoài ra, có thể dùng các biểu hiện của Ngũ hành để tìm ra sự
xáo trộn ở các Hành, Tạng phủ, cơ quan.
Tuy nhiên, cần lưu ý là sự thay đổi của một hành, luôn luôn đưa tới sự thay
đổi của cả năm hành, nhất là trong các hội chứng bệnh. Do đó, mối quan hệ giữa các
hành là mối quan hệ giữa năm hành Mỗi hành khi có sự xáo trộn (hưng phấn hoặc
ức chế), có thể do năm nguyên nhân: Chính tàm Hư tà, Thực tà, Vi tà và Tặc tà.
2.2.4. Âm dương Ngũ hành và Chẩn bệnh:
Chẩn đoán bệnh chính xác là yếu tố then chốt điều trị bệnh, từ đó ta sẽ dễ
nhắm tới cách chữa một khi đã hiểu rõ các triệu chứng chính.
2.2.4.1. Âm dương và Chẩn bệnh:
Âm dương mất điều hoà là gốc của sự biến hoá bệnh lý, việc chẩn đoán bệnh
tật cần phải dựa vào sự biến hoá của Âm dương. Dù dùng cách biện chứng nào (theo
tạng phủ, theo kinh lạc, theo khí huyết tân dịch, theo lục kinh, theo vệ khí dinh
huyết, theo tam tiêu) cũng đều quy về bát cương là biểu, lý, hàn, nhiệt, hư, thực và
Âm dương (tổng cương). Biểu chứng, nhiệt chứng, thực chứng đều thuộc về Dương.
Lý chứng, hàn chứng, hư chứng đều thuộc về Âm. Cho nên bệnh tình tuy thiên biến

vạn hoá song không ra ngoài phạm vi của Âm dương.
Thiên Âm dương ứng tượng đại luận sách Tố Vấn ở Thiên 5 nói: "Người giỏi
chẩn bệnh khi xem sắc án mạch, trước tiên phải phân biệt cho được Âm dương",
hiểu biết Âm dương là mấu chốt chủ yếu của việc chẩn đoán. Trên cơ sở chẩn đoán,
phải điều trị theo nguyên tắc trị bệnh cần tìm cái gốc của nó. Ý là phải tìm ra sự
thiên thắng thịnh suy của Âm dương để tiến hành điều trị làm cho Âm dương trở lại
thăng bằng.
Thiên chí chân yếu đại luận sách Tố Vấn Thiên 74 nói: "Cẩn thận tìm xem
Âm dương mất cân bằng ở đâu để điều hoà cho thăng bằng ở đó là được", có thể
thấy điều hoà Âm dương là nguyên tắc chung của việc chữa bệnh, theo tinh thần
bệnh dương chữa âm, bệnh âm chữa dương. Đó là phép chữa thẳng vào mặt âm, mặt
dương để khôi phục lại thăng bằng Âm dương cho bệnh nhân.
2.2.4.2. Ngũ hành và Chẩn bệnh:
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 15
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Căn cứ vào các triệu chứng xuất hiện qua Ngũ hành như: Ngũ sắc, Ngũ vị,
Ngũ quan, Ngũ chí để tìm ra tạng phủ tương ứng bệnh.
Theo y học phương Đông, Ngũ hành gồm 5 yếu tố Kim, Mộc, Thủy, Hỏa,
Thổ gắn liền với 5 cơ quan: trán, mũi, cằm, 2 má và gắn liền với sự vận động đang
xảy ra bên trong cơ thể như: tim, phổi, thậm chí cả trí não và trạng thái tinh thần
− Trán:
Trán là nhân tố Hỏa, liên quan mật thiết đến tim, ruột non và yếu tố tinh thần.
Khi khám vùng trán, nhìn thấy trán màu đỏ hoặc lờ mờ những mạch máu đỏ
xuất hiện bất thường, chứng tỏ tim của bạn có vấn đề; da trán đổi màu cũng cho thấy
cảm xúc thay đổi gần đây, như bạn đang đau buồn hoặc mất kiểm soát vì điều gì
phiền lòng trong cuộc sống. Điều này rất dễ nhận ra với những người hay có tâm
trạng dễ xáo trộn, họ sẽ có những nếp nhăn trên trán, giữa 2 lông mày.
− Mũi:
Mũi bạn là nhân tố Thổ, là cơ quan biểu hiện tình trạng sức khỏe của dạ dày,
lá lách và tuyến tụy.

Dấu hiệu bất thường qua các mụn hai bên cánh mũi. Nó cho thấy bữa ăn của
bạn ngày hôm trước như: bạn ăn quá nhiều đồ cay, rán kỹ, đồ béo hoặc đồ có chứa
nhiều đạm, kết quả là bạn sẽ bị khó tiêu hóa, táo bón hoặc tiêu chảy.
Các mao mạch vỡ hoặc màu đỏ chạy dọc trên sống mũi có thể chỉ ra rằng bạn
lạm dụng rượu hoặc đơn giản bạn đang lo lắng quá mức và stress.
− Cằm:
Cằm là nhân tố Thủy, liên quan đến thận và bàng quang, bao gồm cả hệ thống
hormon và các tuyến trên cơ thể, da quanh cằm và miệng có những mảng tối màu
chỉ ra vấn đề về thận và bàng quang, mụn trứng cá trên cằm cũng chứng tỏ hormone
mất cân bằng. Vấn đề này thường do cơ thể đang tạo ra quá nhiều hormone sinh dục.
Nhìn vào nhân trung, nếu đường ngang trên nhân trung đổi màu chỉ ra vấn đề viêm
dạ con hoặc u xơ tử cung.
− Má phải:
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 16
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Má phải bạn là nhân tố Kim, kết nối với phổi và ruột già, vấn đề với phổi và
các ruột già thường biểu hiện qua sự biến màu da trên má bằng mụn trứng cá nhẹ
xuất hiện, hay má hơi đỏ một cách bất thường, cơ thể đang nhiễm lạnh, hô hấp có
vấn đề cũng biểu hiện ngay lập tức trên má. Người sắp hen cũng sẽ có những biểu
hiện trên má phải như: đỏ, vảy, hoặc hơi xanh xao, thô ráp…Sắc hơi xanh trên má
phải có thể báo nguy về viêm phổi hoặc thiếu oxy khi co thắt cuống phổi.
− Má trái:
Má trái là nhân tố Mộc, gắn liền với gan, túi mật. Vỡ mao mạch hay đỏ má,
đặc biệt là gần ngay cạnh cánh mũi, chỉ ra bạn gan nóng, viêm gan hoặc có độc tố
trong gan. Mạch phồng, má thô ráp và đỏ đôi khi là dấu hiệu của huyết áp cao và tức
giận dồn nén trong lòng. Sắc hơi vàng nhạt trên má trái, phía dưới mắt chỉ ra bệnh
sỏi mật hay lượng cholesterol hoặc chất béo tự nhiên quá cao mà gây ảnh hưởng đến
quá trình hoạt động của hệ thống gan mật.
2.2.5. Âm dương Ngũ hành và Dược liệu:
2.2.5.1. Âm dương và Dược liệu:

a. Ngũ vị, tứ tính và thuộc tính Âm dương hàn nhiệt của thuốc đông dược:
Ngũ vị là 5 vị: tân (cay), toan (chua), khổ (đắng), cam (ngọt), hàm (mặn),
trong đó: cay, ngọt thuộc Dương; đắng, mặn thuộc vị, có thuộc tính Âm; vị chua vừa
có Dương vừa Âm.
Tứ tính là nói về sự thăng giáng trầm phù, những vị thuốc tỷ trọng nhẹ như
hoa lá cành khi tác dụng trong cơ thể có xu hướng thăng lên trên và phù việt ra
ngoài thuộc dương, những vị thuốc tỷ trọng nặng như thân rế hạt, khoáng vật tác
dụng trong cơ thể có xu hướng trầm giáng xuống và thẩm lợi vào trong thuộc âm.
Thuộc tính Âm dương trong thuốc, những thuốc nâng cao cơ năng hoạt động
của con người như thuốc thuốc bổ khí, thuốc bổ dương, thuốc tăng dị hóa, tăng hoạt
động cơ thể, tăng hưng phấn thần kinh, là thuốc có thuộc tính dương, gọi là dương
dược. Những thuốc bồi bổ dinh dưỡng cho tạng phủ, bổ huyết, bổ âm, tăng quá trình
đồng hóa, giảm hưng phấn tăng ức chế thần kinh, có tác dụng giảm hoạt động, an
thần, có thuộc tính âm, gọi là âm dược.
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 17
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Thuộc tính hàn nhiệt trong thuốc, những thuốc ấm, thuốc nóng, rất nóng là
thuốc có tính nhiệt chỉ dùng cho bệnh do hàn gây ra; Thuốc mát, thuốc lạnh, rất lạnh
chỉ dùng cho bệnh nhiệt, ôn, hỏa viêm là thuốc có tính hàn; tính hàn thuộc âm dược,
tính nhiệt là dương dược.
Vị đạm, tính bình là chỉ những vị thuốc không có vị cay, chua, đắng, ngọt,
mặn và cũng không nóng, không lạnh.
b. Cách sử dụng thuốc theo học thuyết Âm dương:
Bệnh có bản chất là nhiệt phải dùng thuốc đối lập đó là thuốc có tính hàn và
ngược lại, tùy theo mức độ nhiệt, hàn mà dùng thuốc hàn, nhiệt mạnh hay yếu, liều
ít hay nhiều. Thí dụ cách sử dụng thuốc (xem phục lục 3 – Trang)
2.2.5.2. Ngũ hành và Dược liệu:
Y học cổ truyền dùng Ngũ hành áp dụng vào việc sử dụng thuốc đối với bệnh
tật của tạng phủ trên cơ sở liên quan giữa Vị, Sắc, đối với tạng phủ, đây là nền
tảng của việc “Quy Kinh”

Xem thêm: Xem Bói Tuổi Kết Hôn Và Tính Cách Bạn Đời Của Bạn Đời Theo Năm Sinh

(4)
.
Việc áp dụng màu sắc của Ngũ hành vào dược liệu cũng đang được các nước
phương Tây quan tâm đến và áp dụng việc dán nhãn vào các loại thực phẩm căn cứ
theo các giá trị dinh dưỡng:
− Nhãn xanh đậm trên các sản phẩm sữa, chỉ rõ rằng các loại thực phẩm đó
tốt cho xương và răng.
− Màu vàng dán vào bánh mì và các loại ngũ cốc chỉ rõ rằng những loại
này là thức ăn cung cấp năng lượng.
− Màu xanh lục dán vào rau quả là bổ mắt.
− Màu đỏ dán vào cá và thịt chỉ rõ những loại này bổ máu và cơ.
2.2.6. Âm dương Ngũ hành và Châm Cứu:
2.2.6.1. Âm dương và Châm Cứu:
a. Âm dương và Kinh Lạc:
− Theo nguyên tắc thăng giáng:
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 18
Âm dương Ngũ hành trong Y học
• Các kinh âm ở tay, đi lên, tức đi từ vùng nách, ngực lên ngón tay (theo
chiều ly tâm). Các kinh Dương ở tay, đi xuống, tức từ các ngón tay đi
vào ngực, nách (theo chiều hướng tâm).
• Các kinh âm ở chân, đi lên, tức từ các ngón chân đi lên đầu mặt (theo
chiều hướng tâm). Các kinh dương ở chân đi xuống, tức từ đầu mặt đi
xuống chân (theo chiều ly tâm).
• Cần ghi nhớ hướng đi của các đường kinh vì rất cần thiết trong việc áp
dụng nguyên tắc Bổ tả trong châm cứu.
− Theo nguyên tắc trong ngoài:
Âm trong, Dương ngoài thì: các kinh ở phía trong chân, tay thuộc âm (Phế,
Tâm, Tâm bào, Thận, Can, Tỳ). Các kinh ở phía ngoài chân tay thuộc dương (Đại
trường, Tiểu trường, Tam tiêu, Bàng quang, Đởm, Vị).
Ngoài ra, bụng thuộc Âm nên Nhâm mạch thuộc âm, lưng thuộc dương nên

Đốc mạch thuộc Dương.
b. Âm dương Và Huyệt:
Để phân biệt huyệt vị theo Âm dương, có thể theo 1 số nguyên tắc sau: Bên
trái là Dương, bên phải là Âm, do đó các huyệt bên trái mang đặc tính dương (hưng
phấn) gọi là Dương huyệt. Các huyệt bên phải mang đặc tính âm (ức chế) gọi là âm
huyệt. Việc phân biệt âm huyệt, dương huyệt có giá trị rất lớn trong việc chọn huyệt
điều trị cho thích hợp. Thí dụ bệnh Phế (xem phụ lục 4)
2.2.6.2. Ngũ hành và Châm cứu:
Các kinh thư cổ đã áp dụng Ngũ hành vào 1 số huyệt vị nhất định là Tỉnh,
Vinh (Huỳnh), Du, Kinh, Hợp, gọi là Ngũ du huyệt.
Sự sắp xếp thứ tự của Ngũ du không thay đổi nhưng thứ tự của Ngũ hành lại
thay đổi tùy thuộc vào Âm dương của đường kinh. Kinh âm khởi đầu bằng Mộc,
kinh dương bắt đầu bằng Kim, sau đó cứ theo thứ tự tương sinh mà sắp xếp huyệt.
Ngũ Du Tỉnh Vinh (Huỳnh) Du Kinh Hợp
Kinh Âm Mộc Hỏa Thổ Kim Thủy
Kinh Dương Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 19
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Nhận xét về cách phân chia của cổ điển ta thấy:
Nếu chỉ phân chia như trên, sẽ không đủ để giải quyết vấn đề mâu thuẫn
thống nhất là Âm dương ngay trong mỗi hành và trong mỗi hành đều có Âm dương,
do đó, mỗi huyệt của Ngũ du cũng đều có Âm dương. Vì vậy, cùng 1 huyệt, cùng 1
tên, 1 chức năng nhưng lại có 2 công dụng khác nhau : Dương Hỏa (hưng phấn Hỏa)
và Âm hỏa (ức chế Hỏa),
2.2.7. Âm dương Ngũ hành và Điều trị:
2.2.7.1. Âm dương và Điều trị:
Điều trị bệnh là lập lại sự quân bình Âm dương bằng nhiều phương pháp
khác nhau, các y sĩ thường dùng châm cứu và cho thuốc uống để chữa bệnh.
− Nguyên tắc chung:
Bệnh do dương thịnh, phải làm suy giảm phần dương (Tả dương). Bệnh do

âm thịnh, phải làm suy giảm phần âm (Tả âm).
− Về thuốc:
• Bệnh về Âm dùng thuốc Dương (ôn, nhiệt) để chữa.
• Bệnh về Dương, dùng thuốc Âm (Hàn, lương) để chữa.
− Về châm cứu:
• Bệnh nhiệt dùng châm, Bệnh hàn dùng cứu.
• Bệnh thuộc Tạng (âm) dùng các Du huyệt ở lưng (dương) để chữa.
• Bệnh thuộc Phủ (dương), dùng các huyệt Mộ ở ngực, bụng (âm) để
chữa.
2.2.7.2. Ngũ hành và Điều trị:
Trong việc điều trị, cần nắm vững quy luật Sinh Khắc của Ngũ hành thì việc
trị liệu mới đạt được hiệu quả cao.
a. Tương sinh:
Cần nhớ nguyên tắc: "Hư bổ mẫu, Thực tả tử".
− Hư bổ mẫu: phải nhớ chính xác “cái sinh ra nó” để bổ cho mẹ nó thì mẹ nó
giúp cho nó, và như thế nó sẽ lành bệnh.
− Thực Tả Tử là điều trị ở tạng phủ hoặc kinh được “nó sinh ra”.
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 20
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Thí dụ: Mộc sinh hỏa thì thay vì tả Mộc lại tả Hỏa. Do đó, trong châm cứu,
thay vì Tả Huyệt Đại Đôn (Mộc huyệt của can) lại Tả huyệt Hành gian (Hỏa
huyệt của Can).
b. Tương khắc:
Dùng quy luật tương khắc để điều chỉnh rối loạn giữa các hành, ví dụ: người
bệnh xuất huyết.
Huyết màu đỏ thuộc Hỏa, có thể dùng những vị thuốc màu đen (hoặc sao
cháy thành than) như Cỏ mực, Trắc bá, để chữa, vì màu đen thuộc Thủy, Thủy
khắc Hỏa.
c. Bảng tóm tắt điều trị bằng ngũ hành:
Tạng Phủ Bổ, Hư Bổ Mẫu Lý Do

Tả,
Thực Tả Tử
Lý Do
Can Mộc Thận Thủy Thủy sinh Mộc Tâm Hỏa Mộc sinh Hỏa
Tâm Hỏa Can Mộc Mộc sinh Hỏa Tỳ Thổ Hỏa sinh Thổ
Tỳ Thổ Tâm Hỏa Hỏa sinh Thổ Phế Kim Thổ sinh Kim
Phế Kim Tỳ Thổ Thổ sinh Kim Thận Thủy Kim sinh Thủy
Thận Thủy Phế Kim Kim sinh Thủy Can Mộc Thủy sinh Mộc
2.2.8. Âm dương Ngũ hành và Phòng Bệnh:
2.2.8.1. Âm dương và Phòng Bệnh:
Dương sinh dương, cơn nóng giận, tức tối sẽ sinh nóng giận tức tối khác,
cần làm âm hóa chúng bằng những tư tưởng và hành động âm như nghĩ đến những
sự yên tĩnh, hoà bình, dùng những lời nói êm dịu, nhẹ nhàng, đến những nơi
thanh tĩnh, yên lặng,
Âm sinh âm, sự chán nản, buồn phiền, sẽ dẫn đến chán nản buồn phiền
khác. Cần làm dương hóa chúng bằng những tư tưởng và hành động dương: hoạt
động tích cực, hăng say, dùng những lời nói quyết đoán phấn khởi,
2.2.8.2. Ngũ hành và Phòng Bệnh:
Dựa vào Ngũ hành vận khí để biết được đặc điểm của bệnh tật từng năm để
dự phòng.
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 21
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Dựa vào màu sắc, khí, vị của thức ăn, mà biết bệnh gì nên ăn hoặc kiêng
những gì.
Việc áp dụng Ngũ hành cho từng trường hợp, từng sự việc để tìm ra mối quan
hệ gây rối loạn dẫn đến xáo trộn bệnh lý. Công việc này đòi hỏi phải đào sâu vào
từng hành, tìm ra những mối quan hệ giữa các rối loạn với các hành như thế nào về
phương diện y học cổ truyền lẫn y học hiện đại. Nếu nắm được phương pháp lý luận
biện chứng, sẽ giúp rất nhiều trong việc chẩn đoán và điều trị bệnh.
2.2.9. Điều hòa Âm dương Ngũ hành:

2.2.9.1. Thế nào là điều hòa Âm dương và Ngũ hành
Âm dương đối lập nhưng vận động thống nhất, có mức độ, có trật tự, hợp
thời; nếu hoạt động của Âm dương không đúng độ, thời điểm, chỗ nương tựa, mất đi
sự điều hòa, dẫn đến Âm dương thất điều: thái âm, thái dương, thiếu âm, thiếu
dương. Biểu tượng của thái cực là do âm ngư và dương ngư kết hợp mà thành, sử
dụng chữ S để chia thành 2 phần, nó biểu thị Âm dương là sự chuyển hóa 2 chiều
mất đi, rồi phát triển không ngừng.
Theo học thuyết Ngũ hành, một tạng trong cơ thể có mối quan hệ mật thiết
với 4 tạng còn lại giống như một hành trong Ngũ hành cũng có mối quan hệ mật
thiết với 4 hành còn lại, có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau, hay kìm chế lẫn nhau theo
qui luật tương sinh, tương khắc. Đó là hoạt động điều hòa cân bằng trong điều kiện
bình thường.
2.2.9.2. Vì sao phải điều hòa Âm dương và Ngũ hành
Cân bằng Âm dương là nền móng của hoạt động sống. Nếu Âm dương cân
bằng, cơ thể con người khỏe mạnh; nếu Âm dương mất cân bằng, cơ thể con người
sinh ra bệnh tật. Chúng ta muốn biết được quá trình phát triển của bệnh, đi sâu vào
nghiên cứu bản chất của bệnh thì phải đi sâu vào nghiên cứu sự biến đổi Âm dương
trong cơ thể. Vận dụng qui luật và hình thức thay đổi vận động đối lập, thống nhất
của Âm dương để có phương pháp chẩn đoán, tìm hiểu, phòng tránh và điều trị
bệnh.
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 22
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Trong điều kiều kiện sinh lý bình thường, khi các yếu tố Ngũ hành phân bố
đều khắp trên cơ thể con người (theo trật tự sinh khắc) cơ thể con người khỏe mạnh,
nếu phá vỡ qui luật này, cơ thể con người sẽ xuất hiện bệnh tật.
Việc điều hòa Âm dương – Ngũ hành là vấn đề mấu chốt để giữ cho cơ thể
được khỏe mạnh.
2.2.9.3. Làm thế nào để duy trì điều hòa Âm dương – Ngũ hành
Âm dương của con người tương thông, tương ứng với sự thay đổi vận động
của Âm dương giới tự nhiên, mối quan hệ khắng khít không thể tách rời. Sự biến

đổi khí hậu (bốn mùa) là quy luật khách quan của tự nhiên, con người cũng thế, chỉ
có thích ứng với quy luật sinh dưỡng bốn mùa thì cơ thể con người mới có thể cân
bằng Âm dương, theo qui luật xuân hạ dưỡng dương, thu đông dưỡng âm.
Ngoài ra, chúng ta có thể cân bằng Âm dương thông qua ẩm thực. Người ta
phân loại thức ăn theo Ngũ hành dựa vào màu sắc (ngũ sắc), mùi vị (ngũ vị) mà suy
ra tác dụng của món ăn đối với cơ thể. Và sau đó áp dụng nguyên tắc ăn uống theo
qui luật của Ngũ hành: dùng thức ăn phù hợp với tình hình sức khỏe của mình sao
cho duy trì được thế quân bình (đối với người khỏe) hoặc tái lập mối quan hệ quân
bình của Ngũ hành trong cơ thể (đối với người đau ốm). Tránh tình trạng dùng thái
quá một món ăn nào đó vì có thể hại sức khỏe.
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 23
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Chương 3: ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH VÀ BIỆN CHỨNG
TRONG Y HỌC
3.1. Những biểu hiện của Kim khí
Phương Tây, mùa Thu, buổi chiều tối là biểu hiện của thiếu âm(theo đồ Thái
cực), Kim khí là nguồn năng lượng xuất phát từ thiếu âm.
3.1.1. Về cơ thể
Mũi và Khứu giác: Mũi là cửa của bộ hô hấp, nên có liên hệ đến Kim khí.
Lông mũi là Thủy của Phế. Lông mũi dầy, dậm là dấu hiệu Thủy của phế vượng.
Lông mũi ít, thưa là dấu hiệu Thủy của Phế suy. Mạch máu ở mũi là biểu hiện Hỏa
của Phế, do đó, mũi nóng đỏ, sưng, chảy máu mũi là Hỏa của Phế vượng. Gân cơ ở
mũi là biểu hiện Mộc của Phế, nơi người viêm, lao phổi Kim suy khắc được Mộc
khiến Phế Mộc vượng lên, làm cánh mũi phập phồng (có thể dựa vào dấu hiệu này
để chẩn đoán bệnh về Phế 1 cách chính xác). Khứu giác có liên hệ đến mũi: Mũi
hoàn hảo, có khả năng phân biệt được mùi vị 1 cách chính xác và hoàn hảo. Một số
dân tộc thiểu số có khả năng phân biệt được mùi vị của từng loại vật vừa đi qua. Mũi
bị rối loạn, (viêm nhiễm, có tật ) ảnh hưởng đến khứu giác, làm khứu giác giảm, có
khi không còn cảm giác, mùi vị gì.
Họng, Thanh quản, Giọng nói (âm thanh) : Họng là 1 phần của bộ hô hấp, nơi

đây có thanh quản, tuyến Amidal, Vòm họng đều chịu sự chi phối các khí của Phế.
Họng, Amidal sưng, lở loét là dấu hiệu Hỏa của Phế vượng. Thanh quản bị viêm,
các dây rung phát âm sưng, gây ra khan tiếng là dấu hiệu Hỏa của Phế vượng (làm
Mộc vượng gây co rút thanh quản làm khản tiếng). Khi phải la hét, nói nhiều, Mộc
khí bị huy động quá, sau đó suy sụp làm khản tiếng, tắc tiếng là dấu hiệu Mộc của
Phế suy. Tiếng la hét thuộc Can, người có tiếng hét to, vang là người có Mộc khí của
Can vượng. Tiếng la yếu, khàn là dấu hiệu Mộc của Can suy. Tiếng cười thuộc Tâm,
cười vanga, to là dấu hiệu Mộc của Tâm vượng. Tiếng hát thuộc Tỳ, tiếng khóc
thuộc Phế, tiếng rên thuộc Thận có thể dựa vào cường độ to nhỏ, mạnh yếu để
chẩn đoán được tình trạng vượng suy của các tạng phủ liên hệ.
Tuyến giáp: Quanh vùng tuyến giáp có những cơ quan liên hệ mật thiết với
chức năng hô hấp, gọi là xoang cảnh, rất nhạy cảm với các biến thiên của áp lực
không khí và tuyến cảnh phản ứng rất mẫn cảm mỗi khi hóa tính không khí, do đó,
giữa tuyến giáp và phế khí có liên hệ với nhau vì "Phế chủ hô hấp". Bướu cổ đơn
thuần (tuyến giáp suy) là dấu hiệu Thổ của Phế suy. Bướu cổ lồi mắt (BASEDOW,
tuyến giáp cường) là dấu hiệu Thổ của Phế vượng.
Da long: Da lông là phần trực tiếp tiếp xúc với không khí (Kim khí) do đó,
giữa da lông và kim khí có sự liên hệ với nhau. Lông tóc là biểu hiện Thủy của Phế,
vì thế lông măng xanh nhiều là dấu hiệu Thủy của Phế vượng, ngược lại, ít lông,
lông khô, rụng là dấu hiệu Thủy của Phế suy. Da trắng đục, trắng bạch là dấu hiệu
kim khí suy. Người có nước da này hay buồn hay lo (thường gặp nơi người lao
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 24
Âm dương Ngũ hành trong Y học
phổi). Những vần thơ, khúc bi kịch não nề nhất, những chuyện tình sử thảm thương
nhất như : Roméo Juliette, chuyện tình Love Story đều xuất phát từ dân tộc da
trắng.
3.1.2. Về chức năng
Hô hấp: Cơ năng hô hấp liên hệ đến không khí, do đó chịu sự chi phối đặc
biệt của kim khí và có nhiệm vụ trao đổi khí: hít thanh khí vào và thải trọc khí (khí
dơ, xấu ra). Thở vào : Đưa không khí từ ngoài vào (tức từ Biểu vào Lý) là dấu hiệu

Mộc của Phế ở Biểu (tức là liên hệ đến Mộc của đại trường) chính nhờ Mộc của Phế
ở Biểu làm cho bắp thịt, lồng ngực nâng lên, gia tăng thể tích lồng ngực, làm không
khí vào phổi. Phổi thở vào khó khăn, hơi không đầy phổi là dấu hiệu Mộc của Đại
trường suy. Thở ra: Đẩy không khí từ trong ra ngoài tức là từ Lý ra Biểu là biểu hiện
Mộc đó Phế ở Lý. Mộc khí này liên hệ với cơ năng của cơ hoành và các cơ bụng,
làm thể tích lồng ngực thu hẹp, đẩy không khí ra, làm thở ra. Người bệnh thở ra dồn
dập (như trong bệnh suyễn, Tâm phế mãn là dấu hiệu Kim của Phế suy làm Mộc
vượng lên, gây ra suyễn, khó thở. Thở dốc : Người bị xuất huyết nhiều, khí huyết
hao hụt, Phế kim suy kiệt làm Mộc của Phế vượng lên gây nên thở nhanh và gấp
trong giai đoạn đầu (biểu hiện qua cánh mũi phập phồng) và khí Mộc của Phế bị huy
động quá trở nên suy thì người bệnh lại thở yếu, thở dốc trong giai đoạn sau.
Buồn sầu, Lo âu: Nơi Đồ Thái cực, Thiếu âm Kim khí là trung gian của sự
vui mừng quá độ (Thái dương) đã chấm dứt và sự sợ hãi chết chóc (Thái âm) sắp bắt
đầu. Giữa 2 trạng thái này, con người đâm ra lo âu, buồn sầu, buồn cho cái vui đã
qua và lo cho cái tàn tạ sắp đến. Mùa thu, cây cối thay lá, lúa mùa chín tới chờ gặt
làm cho lòng người cũng vì thế mà buồn. Những nguyên nhân bên ngoài gây sự lo
buồn làm Kim khí suy và ngược lại người Kim khí suy thì hay buồn. Để biểu hiện sự
buồn rầu về cái chết trong tang chế. Người Á Đông thường dùng tang phục, khăn
tang, vải liệm màu trắng (Sắc trắng là sắc của Kim).
3.2. Biện chứng trong ngoại khoa Đông y
Biện chứng bệnh ngoại khoa cũng như nội khoa thông qua tứ chẩn thu thập tư
liệu lâm sàng rồi dựa theo lý luận của bát chứng, tạng phủ khí huyết kinh lạc mà
phân tích qui nạp thành những hội chứng bệnh lý hay thể bệnh là cơ sở để chẩn
đoán, lập pháp, định phương trong điều trị
Biện chứng Phù: Phù Do Hoả (Hoả Thủng): tức do nhiệt, da sưng đỏ, da
mỏng bóng nhuận, cảm thấy nóng như lửa đốt và đau nhức: gặp trong loại nhọt làm
mủ cấp tính. Phù Do Hàn (Hàn Thủng): chứng phù cứng như gỗ, không đỏ, không
nóng, thường kèm theo đau nhức, sắc da trắng bệch (do hàn ngưng khí trệ) hoặc
xanh tối (do hàn ngưng huyết ứ) hoặc sắc da không thay đổi, gặp trong chứng thoát
thư (viêm tắc động mạch chi), đông sang (bỏng da do lạnh).

Biện chứng Đau: Theo YHCT, đau là do khí huyết ứ trệ, kinh mạch tắc nghẽn
(thống tắc bất không, thông tắc bất thống). Đau là dấu hiệu báo bệnh, và là cảm giác
chủ quan thường gặp trong các chứng ung nhọt ngoại khoa. Chứng đau thường tùy
bệnh mà khác nhau, có bệnh đau nhiều, có bệnh đau ít, có bệnh đau ngay từ lúc mới
mắc, cũng có bệnh vào giai đoạn giữa hoặc cuối mới đau, vì vậy phân biệt chẩn
đoán chứng đau rất cần trong ngoại khoa. Có mấy loại đau thường gặp:
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 25

Tài liệu liên quan

*

Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học duy vật và triết học duy tâm ở Hy Lạp thời cổ đại 20 920 1

*

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC NÉT TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA ĐẠO GIA VÀ PHÁP GIA 20 513 0

*

Tiểu luận triết học SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC ĐẠO GIA TRIẾT HỌC PHÁP GIA Ở TRUNG QUỐC THỜI CỔ ĐẠI 18 693 1

*

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC ĐẠO GIA VÀ TRIẾT HỌC PHÁP GIA Ở TRUNG QUỐC THỜI CỔ ĐẠI 17 799 0

*

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC ĐẠO GIA PHÁP GIA Ở TRUNG QUỐC THỜI CỔ ĐẠI 23 650 0

*

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC DUY VẬT CHẤT PHÁC VÀ TRIẾT HỌC DUY TÂM Ở HY LẠP THỜI CỔ ĐẠI 19 866 2

*

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC DUY VẬT CHẤT PHÁC VÀ TRIẾT HỌC DUY TÂM Ở HY LẠP THỜI CỔ ĐẠI 22 932 1

Xem thêm: Khóa Học In Lụa Tphcm 7 Ngày Ra Nghề, Khóa Học Dạy In Lụa 7 Ngày Tại Tphcm

*

Tiểu luận triết học SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO VÀ TRIẾT HỌC VEDANTA ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI 16 839 1

*
Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Tiểu luận