Tài Liệu Tiểu Luận Ô Nhiễm Môi Trường Đất Trang 1 Tải Miễn Phí Từ Tailieuxanh

Trước hết cần giáo dục người dân trong việc thực hiện bảo vệ môi trường nói chung và môi trường đất nói riêng. Đối với các đơn vị vi phạm luật môi trường, cần phải xử lý nghiêm khắc Ðiều 184 (BLHS). Tội gây ô nhiễm đất+ Người nào chôn vùi hoặc thải vào đất các chất độc hại quá tiêu chuẩn cho phép, đã bị xử phạt hành chính mà cố tình không thực hiện các biện pháp khắc phục theo quyết định của cơ quancó thẩm quyền gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.+ Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.+ Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm

Đang xem: Tiểu luận ô nhiễm môi trường đất

*

Xem thêm: Luyện Tập Viết Đoạn Văn Nghị Luận – Ngữ Văn Lớp 10, Soạn Bài Luyện Tập Viết Đoạn Văn Nghị Luận

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Ô nhiễm môi trường đất và các biện pháp khắc phục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Xem thêm: Cách Tính Diện Tích Ký Hiệu Là Gì ? Công Thức Tính Và Bài Tập Ví Dụ Liên

ục và hoạt động như là một chất mang Oxy. Nó cũng giúp hình thành nên một số hệ thống men hô hấp. Thiếu Sắt gây ra hiện tượng mầu xanh lá cây nhợt nhạt (bạc lá) với sự phân biệt rõ ràng giữa những gân lá mầu xanh và khoảng giữa mầu vàng. Vì Sắt không được vận chuyển giữa các bộ phận trong cây nên biểu hiện thiếu trước tiên xuất hiện ở các lá non gần đỉnh sinh trưởng của cây.- Thiếu sắt nặng có thể chuyển toàn bộ cây thành màu vàng tới trắng lợt, Lá cây thiếu sắt sẽ chuyển từ màu xanh sang vàng hay trắng ở phần thịt lá, trong khi gân lá vẫn còn xanh. Triệu chứng thiếu sắt xuất hiện trước hếtở các lá non, sau đến lá già, vì Fe không di động từ lá già về lá non. Sự thiếu sắt có thể xảy ra do sự thiếu cân bằng với các kim loại khác như Molipden, Đồng hay Mangan. Một số yếu tố khác cũng có thể gây thiếu sắt như quá thừa Lân trong đất; do pH cao kết hợp với giầu Canxi, đất lạnh và hàm lượng Carbonat cao; thiếu sắt do di truyền của cây; thiếu do hàm lượng chất hữu cơ trong đất thấp.4. Vai trò của Mangan (Mn):Mangan là thành phần của các hệ thống men (enzyme) trong cây. Nó hoạt hóa một số phản ứng trao đổi chất quan trọng trong cây và có vai trò trực tiếp trong quang hợp, bằng cách hỗ trợ sự tổng hợp Diệp lục. Mangan tăng cường sự chín và sự nẩy mầm của hạt khi nó làm tăng sự hữu dụng của Lân và Canxi. Cũng như sắt, Mangan không được tái sử dụng trong cây nên hiện tượng thiếu sẽ bắt đầu từ những lá non, với mầu vàng giữa những gân lá, và đôi khi xuất hiện nhiều đốm nâu đen. Ở những cây hòa thảo xuất hiện những vùng mầu xám ở gần cuống lá non.- Triệu chứng điển hình khi cây thiếu Mn là phần gân lá và mạch dẫn biến vàng, nhìn toàn bộ lá có màu xanh sáng, về sau xuất hiện các đốm vàng ở phần thịt lá và phát triển thành các vết hoại tử trên lá. Hiện tượng thiếu Mangan thường xảy ra ở những chân đất giầu hữu cơ, hay trên những đất trung tính hoặc hơi kiềm và có hàm lượng Mangan thấp. Mặc dù hiện tượng thiếu Mangan thường đi với đất có pH cao, nhưng nó cũng có thể gây ra bởi sự mất cân bằng với các dinh dưỡng khác như Canxi, Magie và Sắt. Hiện tượng thiếu thường xảy ra rõ nét khi điều kiện thời tiết lạnh, trên chân đất giầu hữu cơ, úng nước. Triệu chứng sẽ mất đi khi thời tiết ấm trở lại và đất khô ráo.5. Vai trò của Molipden (Mo):Molipden cần cho sự tổng hợp và hoạt động của men khử Nitrat. Loại men này khử Nitrat thành Ammonium trong cây. Molipden có vai trò sống còn trong việc tổng hợp đạm cộng sinh bởi vi khuẩn Rhizobia trong nốt sần cây họ đậu. Molipden cũng cần thiết cho việc chuyển hóa Lân từ dạng vô cơ sang hữu cơ trong cây.- Thiếu Mo sẽ ức chế dinh dưỡng đạm của cây trồng nói chung, đặc biệt của các cây họ đậu . Hiện tượng thiếu Molipden có biểu hiện chung như vàng lá và đình trệ sinh tưởng. Sự thiếu hụt Molipden có thể gây ra triệu chứng thiếu Đạm trong các cây họ đậu như đậu tương, cỏ alfalfa, vì vi sinh vật đất phải có Molipden để cố định Nitơ từ không khí. Molipden trở nên hữu dụng nhiều khi pH tăng, điều đó ngược lại với đa số vi lượng khác. Chính vì điều này nên hiện tượng thiếu thường xảy ra ở đất chua. Đất nhẹ thường dễ bị thiếu Mo hơn so với đất nặng.III.TÍNH CHẤT CƠ BẢN CỦA ĐẤTIII.1.Độ xốp và độ trữ ẩmIII.1.1.Độ xốp của đất: Mỗi loại đất có cấu trúc khác nhau, nên độ xốp khác nhau và chúng có khả năng trữ ẩm, giữ khí khác nhau. Đặc trưng này rất quan trọng đối với trồng trọt vì đất ẩm tốt sẽ thuận lợi cho cây trồng phát triển và giảm được công việc phải tưới nước nhiều. Độ xốp và độ trữ ẩm của đất được quyết định bởi các yếu tố, ví dụ:Cấu trúc của các hạt keo đất.Thành phần của các chất tạo ra keo đất.Độ mùn của đất.Một số vi sinh sống trong đất.Vì thế nên khi các yếu tố này thay đổi thì độ xốp và độ trữ ẩm của đất cũng bị thay đổi. Vì thế người ta có thể cải tạo đất để làm đất có chất lượng cao phù hợp cho cây trồng qua việc gia tang các loại phân bón để có năng suất cao theo ý muốn.Độ xốp của đất là độ hổng của đất, nó là tổng thể tích những lỗ hổng (hay các khe nhỏ) trong các hạt keo đất và được tính ra theo % so với tổng thể tích chung của đất theo công thức sau:P(%) = (V1/V2).100Trong đó: P là độ xốp của đất. V1 là thể tích của lỗ hổng tính theo cm3.V2 là thể tích của đất tính theo cm3.Độ xốp của đất có quan hệ tỉ trọng của đất. Loại đất nào có độ xốp cao thường có tỉ trọng nhỏ hơn.III.1.2.Độ trữ ẩm của đất: Độ trữ ẩm tối đa của một loại đất là lượng nước lớn nhất mà loại đất đó giữ lại được sau khi có nước trọng lực chảy qua nó mà không có hiện tượng dâng mao quản từ các mạch nước ngầm. Các loại đất xốp lớn thường có độ trữ ẩm cao. Độ trữ ẩm của đất thể hiện khả năng trữ ẩm (giữ nước) của đất, nó là một hằng số đối với mỗi loại đất. Còn độ ẩm lại là một biến số, nó luôn thay đổi phụ thuộc vào thời tiết, độ ẩm tương đối của môi trường khí quyển và thời gian phơi đất.III.2.Độ hút ẩm và hấp thụ khíMỗi loại đất có cấu trúc khác nhau nên chúng có khả năng hút ẩm và hút khí khác nhau. Đặc trưng này rất quan trọng đối với cây trồng vì cây trồng cần phải hút nước từ đất để phát triển. Đất có độ xốp cao sẽ có khả hút ẩm và hút khí tốt. Đặc tính này phụ thuộc vào yếu tố sau:Cấu trúc của các hạt keo đất.Thành phần cơ giới của đất.Độ mùn của đất.Độ chua mặn (muối) của đất.Một số vi sinh sống trong đất.III.3.Độ axit và độ chua của đấtĐây là các chỉ tiêu hóa lý quan trọng của đất và có ảnh hưởng quan trọng đối với cây trồng. Đất có độ axit và độ chua cao sẽ không thích hợp cho cây trồng lương thực (lúa, ngô,) hay các cây rau quả. Độ chua của đất là do sự có mặt của ion H+ và ion Al3+ trong đất tạo ra và được chia làm 2 loại:Độ chua hiện tại (độ chua hoạt tính): Là độ chua tạo ra do ion H+ tự do trong đất và được chiết ra khi lắc chiết mẫu đất với nước cất và xác định độ chua qua đo pH của dung dịch chiết này. Vì thế ta có giá trị pH của H2O, người ta dung nước cất để chiết và xác định độ chua này.Độ chua tiềm tang (độ chua tổng): Được xác định khi chiết mẫu đất bằng dung dịch muối kiềm trung tính (KCl). Vì thế có khái niệm pH của KCl. Độ chua này được chia thành 2 thành phần là:Độ chua trao đổi: được xác định khi mẫu chiết đất bằng dung dịch KCl hay NaCl và đo pH của chúng. Vì thế người ta thường dung dung dịch KCl 1M để chiết và xác định độ chua này.Độ chua thủy phân: Được xác định khi chiết mẫu đất bằng dung dịch muối như NaCH3COO 1M. Thông thường độ chua thủy phân có giá trị lớn hơn độ chua trao đổi. Vì lúc này hầu như toàn bộ lượng ion H+ và Al3+ thủy phân đã được chiết vào dung dịch. Vì thế người ta thường dùng dung dịch NaCH3COO 1M (có pH=8.2) để chiết mẫu đất và xác định độ chua này.IV.SỰ THOÁI HÓA ĐẤTĐất là môi trường thích hợp cho sự sinh trưởng phát triển của cây, nó cung cấp nước, oxy cũng như dinh dưỡng cho cây trồng.Sự hình thành đất là một quá trình lâu dài có liên quan mật thiết với địa hình, khí hậu, thực vật, động vật, đá mẹ và con người.IV.1.Nguyên nhân của sự suy thoái đấtNguyên nhân của thoái hóa đất do tự nhiên gây nên:+ Sông suối thay đổi dòng chảy, núi lở…; Do thay đổi khí hậu, thời tiết: mưa, nắng, nhiệt độ, gió, bão…;+ Mưa liên tục, cường độ lớn: gây lũ quét, rửa trôi xói mòn trên vùng đồi núi và ngập úng ở vùng thấp trũng. Trên vùng đất dốc xói mòn rửa trôi mạnh sẽ tạo nên đất xói mòn trơ sỏi đá hoặc mất lớp đất mặt với tầng mùn/hữu cơ. Ngược lại, tại những vùng thấp trũng ngập nước liên tục sẽ tạo nên các loại đất lầy thụt, úng trũng, chỉ thích hợp với các loại thực vật thủy sinh. Cả hai loại đất suy thoái này đều có hại cho sản xuất, thậm chí không còn khả năng sản xuất nông nghiệp.Nguyên nhân của sự thoái hóa đất do con người gây nênNhiều hoạt động sản xuất của con người dẫn đến làm thoái hóa đất+ Chặt đốt rừng làm nương rẫy, trồng cây lương thực ngắn ngày trên đất dốc theo phương pháp bản địa: Làm sạch đất (đốt), chọc lỗ bỏ hạt, không có biện pháp chống rửa trôi xói mòn đất vào mùa mưa và giữ ẩm đất vào mùa khô, không bón phân, đặc biệt trả lại chất hữu cơ cho đất. Chỉ sau vài ba năm trồng tỉa, đất bị thoái hóa không còn khả năng sản xuất do đất không còn chất dinh dưỡng, tầng đất mỏng, trơ sỏi đá, thiếu nước.+ Trong quá trình trồng trọt, không có biện pháp bồi dưỡng, bảo vệ đất như bón phân hữu cơ, trồng xen hoặc luân canh các loài cây phân xanh, cây họ đậu, trồng độc canh.Vì vậy, cho dù đất phù sa phì nhiêu màu mỡ, sau một thời gian canh tác độc canh sẽ dẫn đến đất bị thoái hóa theo con đường bạc màu hóa hoặc bạc điền hóa (đất chua, mất phần tử cơ giới limon và sét trên tầng mặt, mất chất hữu cơ, mất kết cấu đất, kiệt quệ chất dinh dưỡng), làm giảm khả năng sản xuất, năng suất cây trồng thấp và bấp bênh.+ Đất bị thoái hóa do bị ô nhiễm chất độc bởi các hoạt động khác của con người như rác thải sinh hoạt và công nghiệp, nước thải sinh hoạt và công nghiệp, nước thải của chế biến thực phẩm. Đặc biệt nghiêm trọng khi đất bị nhiễm kim loại nặng vượt ngưỡng cho phép của tiêu chuẩn đo lường quốc gia.+ Đất bị thoái hóa theo hướng nhiễm mặn do con người gây nên. Tại một số vùng trồng rau, hiện nay vẫn còn có tập quán sử dụng phân cá chưa qua xử lý. Kết quả làm cho đất bị thoái hóa nghiêm trọng. Khi bón phân cá vào đất, do trong phân có chứa các cation Na + tích lũy cao gây thay đổi tính chất vật lý đất, phá hủy cấu trúc đoàn lạp làm đất bị chai cứng, bí chặt, không thoát nước người dân phải thay đất sau một thời gian canh tác.+ Đất bị thoái hóa do ô nhiễm các vi sinh vật, tuyến trùngHiện nay, do canh tác độc canh, sử dụng nhiều sản phẩm hóa học nên quần thể vi sinh vật trong đất thay đổi. Nhiều loài vi sinh vật có lợi bị tiêu diệt. Hình thành nhiều quần thể có hại cho đất và cây trồng. Nhiều chân đất bị ô nhiễm các nguồn bệnh trong đất, làm cho đất mất khả năng sản xuất. Trong đó có các loại như tuyến trùng, nấm (Fusarium sp, Rhizoctonia sp, sclerotium,) vi khuẩn các loạiIV.2.Một số biện pháp khắc phục sự thoái hóa đấtSự phục hồi đất là cách thức tự trả lại cho đất những tính chất và khả năng sản xuất mà nó từng có trước khi lâm vào tình trạng suy thoái. Hay nói cách khác, đó là những biện pháp khoa học kỹ thuật tác động vào các loại đất đã, đang bị suy thoái (do quá trình sử dụng đất không hợp lý hoặc do tác động của môi trường xung quanh gây nên), nhằm tạo cho đất trở lại với những tính chất và khả năng ban đầu.Kiến thiết đồng ruộng Canh tác đất dốc: Phải đảm bảo chống xói mòn rửa trôi đất, chống hiện tượng đất bị khô hạn, dẫn đến kết von đá ong hóa. Biện pháp kiến thiết ruộng trên đất dốc hữu hiệu nhất là làm ruộng bậc thang, trồng cây theo đường đồng mức.Biện pháp tưới tiêuXây dựng hệ thống tưới tiêu nước và kỹ thuật tưới nước hợp lý. Đây là biện pháp rất quan trọng trong việc phục hồi khả năng sản xuất và tăng độ phì nhiêu của đất đã bị thoái hóa.Kỹ thuật tưới tiêu nước cũng rất quan trọng. Nhìn chung, do đặc tính vật lý của các loại đất này phần lớn là kém, khả năng giữ nước giữ ẩm kém, nên cần áp dụng các kỹ thuật tưới đảm bảo đưa lượng nước tưới thấm dần vào đất( tưới nhỏ giọt), đồng thời tránh tạo dòng chảy trên bề mặt. Như vậy, vừa sử dụng được lượng nước hữu hiệu cho cây, vừa tăng độ ẩm và giữ ẩm cho đất và tránh được sự thất thoát nước trên bề mặt, cũng như tránh tạo nên dòng chảy gây xói mòn và rửa trôi đất khi tưới.Biện pháp sinh học và hữu cơHầu hết các loại đất bị suy thoái đều có đặc điểm đặc trưng là nghèo kiệt chất hữu cơ trong đất, dẫn đến đất xuất hiện nhiều tính chất lý hóa và sinh học xấu của đất như mất kết cấu, khả năng giữ ẩm kém, khả năng hấp phụ thấp, hàm lượng dinh dưỡng đất (độ phì nhiêu đất) thấp. Nguyên nhân chính của nhiều loại đất bị suy thoái như ngày nay là do bị khai phá mất lớp thảm thực vật ban đầu (khai hoang phá rừng làm nương rẫy), sử dụng triệt để các nguồn và các sản phẩm hữu cơ của đất trong sản xuất mà không trả lại cho đất lượng hữu cơ nào, không bón hoặc bón rất ít phân hữu cơ cho cây trồng, không đủ lượng hữu cơ đã lấy đi của đất. Vì vậy, một trong những biện pháp quan trọng nhất và được chú ý nhất nhằm phục hồi đất bị suy thoái là biện pháp sinh học/hữu cơ. Nhiều kết quả nghiên cứu và thực tiễn trong việc phục hồi đất đã bị suy thoái bằng biện pháp này đã chứng minh rằng sau một thời gian ngắn, đất được phục hồi độ phì và khả năng sản xuất rõ rệt. Hơn nữa, với điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng ẩm của nước ta, các loại cây trồng và thực vật sinh trưởng phát triển mạnh, đã tạo sinh khối lớn, trả lại chất hữu cơ cho đất, đó là:- Tàn tích hữu cơ: rễ cây, thân lá rụng, rơi vào đất, được để lại đất sau thu hoạch.- Các hệ thống trồng trọt luân canh, xen canh, trồng theo băng giữa cây trồng chính và cây cải tạo đất là cây phân xanh, cây họ đậu (lạc dai, điền thanh, muồng hoa vàng, keo dậu)− Các hệ thống nông lâm kết hợp giữa cây dài ngày và cây ngắn ngày bổ sung chất hữu cơ cho nhau và cho đất.− Các phương thức bổ sung chất hữu cơ cho dất như bón phân hữu cơ, phủ vật liệu hữu cơ cho cây trồng chính, trồng cây phủ đất đa tác dụng cho cây trồng chính.- Sử dụng các chế phẩm sinh học, VSV trong sản xuất nông nghiệp+ Sử dụng các vi sinh vật để cố định N tự do thành đạm dễ tiêu qua 2 con đường VSV cố định đạm tự do từ khí trời và vi sinh vật cố định đạm qua nốt sần.Azospirillum sp lần đầu tiên được phân lập vào năm 1992 được Beirink phân lập từ đất cát nghèo Nitơ ở Grorssel, tỉnh Gelderland, Hà Lan. Vi khuẩn này có khả năng cố định đạm, sống tự do hoặc kết hợp với vùng rễ của cây họ hòa thảo, đặc biệt là vùng rễ của cây cỏ nhiệt đới, lúa nước, lúa mì, ngô (Boddy et al., 1995). Sự tăng sinh xảy ra dưới cả hai điều kiện hiếu khí và kỵ khí nhưng thích hợp ở điều kiện vi hiếu khí. Ngoài khả năng cố định đạm, Azospirillum có khả năng tổng hợp các chất điều hòa sinh trưởng thực vật như Auxin và Gibberelin giúp bộ rế cây trồng phát triển tốt hơn, gia tăng diện tích tiếp xúc của rễ với đất.+ Sử dụng các VSV phân giải lân khó tiêu thành dạng dễ tiêu:Hiện nay đã có nhiều nghiên cứu và sản xuất ra các sản phẩm có khả năng chuyển lân từ dạng khó tiêu sang dạng dễ tiêu. Nhiều nghiên cứu kết luận vi sinh vật Pseudomonas sp có tác dụng phân giải lân khó tiêu (CaHPO 4, Ca3HPO4, Ca5OHPO4, AlPO4, FePO4) trong đất thành lân dễ tiêu (H3PO4) cung cấp cho cây.+ Sử dụng các chế phẩm sinh học để làm gia tăng hiệu quả sử dụng phân bón, cải tạo đất+ Sử dụng các biện pháp sinh học trong phòng trừ các loài nấm, vi khuẩn phát sinh từ đất: Để làm phong phú quần thể các các loài vi sinh có lợi cho cây trồng người ta sử dụng các loài sinh vật đối kháng như các loài vi khuẩn có lợi cho cây trồng, các chủng nấm Trichoderma spp có tác dụng đối kháng với các loài nấm bệnh từ đất như Fusarium sp, Phytophthora sp, Pythium, Rhizoctonia solani, Sclerotium rolfsii.Biện pháp truyền thống/bản địa- Xây bờ đá trên đất dốc.- Làm đất tối thiểu.- Làm ruộng bậc thang.Biện pháp thâm canh+ Làm đất thích hợp với từng loại cây trồng: cày, bừa, đánh luống, rạch rãnh gieo hạt, (trồng cây ăn quả ở vùng đất trũng thấp hoặc trồng cây lấy củ ở vùng đất có mực nước ngầm nông).+ Tưới nước theo nhu cầu sử dụng nước của các loại cây trồng hoặc tưới tiêu nước để cải tạo đất bị thoái hóa (chua hóa, mặn hóa, phèn hóa).+ Giống cây trồng thích hợp cho các loại đất, giống chịu được các đặc tính đất bị thoái hóa như chịu chua, chịu thiếu lân, chịu mặn, chịu khô hạn, chịu ngập úng…+ Bón phân không chỉ cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng mà phải đảm bảo lượng phân làm tăng độ phì nhiêu đất. Hiệu quả của bón phân phục hồi đất rõ nhất là duy trì và tăng cường bón phân hữu cơ cho đất, bón vôi khử chua các loại đất bị chua hóa.+ Chăm sóc và bảo vệ cây trồng: làm cỏ, sục bùn (đất lúa), xới sáo (đất trồng cạn), phòng trừ sâu hại và dịch hại thường xuyên, đặc biệt ưu tiên chăm sóc các loại cây trồng trên những loại đất thoái hóa mạnh, vì trên những loại đất này, hàm lượng hữu cơ, hoặc dung tích hấp thu, hoặc một số tính chất vật lý của đất rất thấp/kém, nên các loại cây trồng thường dễ bị tổn thương khi thời tiết hoặc môi trường sản xuất bị thay đổi đột ngột.CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG Ô NHIỄM ĐẤT TẠI VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤCI. Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG ĐẤTI.1. Tác động của hệ thống sản xuất đến môi trường đấtDân số trên trái đất tăng lên, đòi hỏi lượng lương thực, thực phẩm ngày càng nhiều và con người phải áp dụng những phương pháp để tăng mức sản xuất và cường độ khai thác độ phì của đất. Những biện pháp phổ biến nhất là:Tăng cường sử dụng các chất hoá học trong nông, lâm nghiệp như phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ.Sử dụng các chất tăng cường sinh trưởng để có lợi cho việc thu hoạch.Sử dụng công cụ và kỹ thuật hiện đại.Mở rộng mạng lưới tưới tiêu.Tất cả các biện pháp này đều tác động mạnh đến hệ sinh thái và môi trường đất:Làm đảo lộn cân bằng sinh thái do sử dụng thuốc trừ sâu.Làm ô nhiễm môi trường đất do sử dụng thuốc trừ sâu.Làm mất cân bằng dinh dưỡng.Làm xói mòn và thoái hoá đất.Phá huỷ cấu trúc của đất và các tổ chức sinh học của chúng do sử dụng các thiết bị, máy móc nặng.Làm mặn hoá hay chua phèn do chế độ tưới tiêu không hợp lý.I.2. Tác nhân gây ô nhiễm môi trường đấtÔ nhiễm môi trường đất được xem là tất cả các hiện tượng làm nhiễm bẩn môi trường đất bởi các chất gây ô nhiễm(pollutant). Người ta có thể phân loại đất bị ô nhiễm theo nguồn gốc phát sinh, hoặc theo các tác nhân gây ra ô nhiễm.Nếu theo nguồn gốc phát sinh có:Ô nhiễm đất do các chất thải sinh hoạt.Ô nhiễm đất do chất thải công nghiệp.Ô nhiễm đất do hoạt động nông nghiệp.Môi trường đất có những đặt thù riêng và một số tác nhân gây ô nhiễm có thể có cùng nguồn gốc nhưng lại gây tác động rẩ bất lợi rất khác nhau. Do đó, phân loại theo các tác nhân gây ô nhiễm sẽ phù hợp hơn đối với môi trường đất:Ô nhiễm do tác nhân hóa họcÔ nhiễm do tác nhân sinh học.Ô nhiễm do tác nhân vật lý.I.2.1.Ô nhiễm ở khu công nghiệp và đô thịQuá trình phát triển công nghiệp và đô thị cũng ảnh hưởng đến tính chất lý và hóa học đất.Những tác động về vật lý đất như: gây xói mòn, nén chặt đất và phá hủy cấu trú đất do kết quả của các hoạt động xây dựng, sản xuất khai thác mỏ.Những tác động về hóa học như: các chất thải rắn, lỏng và khí tác động đến đất.Tác động của công nghiệp và đo thị đén đất xảy ra rất mạnh từ cuộc cách mạng công nghiệp thế kỷ XVIII – XIX, đặc biệt là trong những thập niên gần đây. Các chất thải công nghiệp ngày càng nhiều và có độc tính ngày càng cao, nhiều loại rất khó bị phân hủy sinh học. Các chất thảiđộc hại có thể được tích lũy trong đất trong thời gian dài gây ra nguy cơ tiềm năng đối với môi trường.Có thể phân chia các chất thải ra 4 nhóm chính:Chất thải xây dựng,Chất thải kim loại.Chất thải khí.Chất thải hóa học và hữu cơ.I.2.1.1.Chất thải xây dựngChất thải xây dựng như gạch ngói, thủy tinh, gỗ, ống nhựa, dây cáp, bêtông, nhựatrong đất các chất này bị biến đổi theo nhiều con đường khác nhau, nhiều chất rẩ khó bị phân hủyI.2.1.2.Chất thải kim loạiCác chất thải kim loại, đặc biệt là các kim loại nặng (Pb, Zn, Cd, Cu và Ni) thường có nhiều ở các khu vực khai thác mỏ, các khu công nghiệp và đô thị.Kết quả điều tra đất vườn ở 53 thành phố, thị xã ở nước Anh cho thấy hầu hết có lượng chì tổng số vượt trên 200 mg/kg, ở nhiều vùng công nghiệp đã vượt quá 500 mg/kg, các giá trị này cao hơn đất bình thường không bị nhiễm bẩn ( 45 mg/l NO3-, khoong thể dùng làm nước uống.Quá trình nitrat hoá làm tăng tính chua của môi trường đất do trong đất tồn tại HNO3.Một số phân bón hoá học khác gây ô nhiễm môi trường đất như phân lân. Phân super lân thường có 5% axít tự do (H2SO4), làm cho môi trường đất chua. Trong các loại phân lân cũng còn chứa một lượng các kim loại nặng khác như As, Cd, Pb cũng là nguyên nhân làm tích luỹ các kim loại này trong đất.Các phân hoá học khác hầu hết là các dạng muối (NH4SO4, KCL, K2SO4, KNO3) của các axít, do đó khi bón vào đất làm cho đất chua.-Phân hữu cơThông thường phân hữu cơ gồm: phân chuồng, phân xanh, phân ủ. Thành phần của phân tuỳ thuộc vào nguồn chế biến. Nguồn phân hữu cơ gây ô nhiễm đất có thể do cách sử dụng, nguồn sử dụng để chế biến.Phân chuồng nếu không được ủ đúng kỹ thuật, như nông dân sử dụng phân tươi (phân chuồng, phân bắc) ngâm ủ, nông dân sử dụng tưới trên cây trồng chứa rất nhiều các vi sinh (Coliform, E.coli, Clostridium perfingens, Streptococcus, Salmonella, Vibrio cho lera), ký sinh trùng (giun đũa) trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là trên rau làm cho rau không an toàn, gây độc cho người sử dụng.Các loại phân hữu cơ hiện nay, như phân chuồng (heo, gà,) được nuôi từ thứ ăn tổng hợp không còn an toàn cho nông sản như trước, vì trong thành phần của nó có nhiều khoáng vi lượng (Cu, Zn, Fe, Mn, Co,). Hàm lượng kim loại nặng chứa trong phân có thể là nguồn xâm nhập vào đất trồng và tồn lưu trong các loại nông sản phẩm, đặc biệt là các loại rau ăn lá.Sử dụng nhiều phân hữu cơ trong điều kiện yếm khí, quá trình khử chiếm ưu thế, sẽ tạo ra nhiều axít hữu cơ làm đất chua, đồng thời tạo ra nhiều chất độc H2S, CH4, CO2.I.2.2.2.Ô nhiễm do thuốc bảo vệ thực vậtThuốc bảo vệ thực vật bao gồm: thuốc trừ sâu, bệnh (nấm, tuyến trùng), thuốc diệt cỏ, chất kích thích sinh trưởng đều là các chất hoá học hữu cơ hay vô cơ. Rất cần thiết để diệt sâu, bệnh, cỏ dại bảo vệ cây trồng, Nhưng vì bản chất của các chất này là diệt sinh học nên ít nhiều đều ảnh hưởng đến môi trường đất.Các hoá chất này gây ô nhiễm môi trường đất và hoạt tính của chúng sẽ là chất độc cho các động vật và con người. Nó có thể tồn tại lâu trong đất, xâm nhập vào thành phần cây, nhất là tích luỹ ở các bộ phận của cây, con người sử dụng các sản phẩm này sẽ gây ngộ độc.Đặc tính của thuốc trừ sâu bệnh là tính bền trong môi trường sinh thái. Sau khi xâm nhập vào môi trường và tồn tại một thời gian dài trong các dạng cấu trúc sinh hoá khác nhau hoặc tạo các dạng hợp chất liên kết trong môi trường đất. Các hợp chất mới này thường có độc tính cao hơn bản thân nó. Ví dụ như DDT sau một thời gian sử dụng có tạo ra DDE, độc hơn DDT gấp 2-3 lần. Thuốc trừ sâu Aldrin tồn tại lâu dài trong đất bị phân thành Dieldrin, mà tính chất của nó độc nhiều lần so với Aldrin.Các thuốc bảo vệ thực vật thường chứa nhiều kim loại nặng như: As, Pb, Hg. Một số loại thuốc bệnh như: CuSO4, Zineb, Macozeb chứa các kim loại nặng như Zn, Cu, Mn sử dụng nhiều và lâu dài sẽ tồn lưu các kim loại trong đất.Tác hại khác của thuốc trừ sâu bệnh là sự xâm nhập của nó vào môi trường đất làm cho cơ lý hoá tính đất giảm sút, mức độ gây hại tương tự như phân bón hoá học. Nhưng khả năng diệt khuẩn cao nên thuốc trừ sâu bệnh cũng đồng thời tiêu diệt nhiều vi sinh vật có ích làm các hoạt tính sinh học của đất bị giảm.I.2.2.3.Ô nhiễm đất do dầuÔ nhiễm đất do hydrocarbures từ nguồn dầu hoả. Thành phần cơ bản của dầu mỏ: Carbon 82 – 87%, hydro 11 – 14%,lưu huỳnh 0,1 – 0,5%, oxy và nitơ tieu_luan_4608.docx

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Tiểu luận