tiểu luận logistics

Bạn đang xem: tiểu luận logistics Tại Lingocard.vn

LỜI MỞ ĐẦU
Trong điều kiện kinh tế thị truờng hiện nay, các hoạt động thương
mại phát triển rất phong phú, đa dạng và đan xen lẫn nhau, việc một
thương nhân chỉ bằng khả năng của mình thực hiện tất cả các công đoạn
của quá trình giao lưu thương mại ngày càng trở nên hãn hữu. Chỉ để
chuyển được hàng hóa đến cho người mua, thương nhân bán hàng có thể
phải thực hiện một loạt các thao tác từ đóng gói sản phẩm, ghi ký mã
hiệu, làm thủ tục thuế quan và một loạt các giấy tờ khác để gửi hàng và
nhận hàng, xếp dỡ hàng hóa, lưu kho bãi… Thương nhân bán hàng có thể
thực hiện được tất cả những công việc trên nhưng không phải bất cứ
thương nhân nào cũng có đủ trình độ chuyên môn, mặt khác những chi
phí phát sinh trong việc thực hiện các hoạt động phụ trợ trên cũng rất tốn
kém. Để giảm chi phí sản xuất, các thương nhân đã lựa chọn cho mình
những dịch vụ liên quan đến việc chuyển hàng hóa đến người mua. Và vì
thế dịch vụ giao nhận hàng hóa ra đời.
Dịch vụ này lần đầu tiên được quy định trong Luật thương mại
1997, và cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, giao nhận hàng
hóa dần được mở rộng nội hàm. Luật thương mại 2005 gọi loại dịch vụ
này là dịch vụ Logistics.
Tại điều 233 Luật thương mại 2005 đã định nghĩa: “ Dịch vụ
logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực
hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho,
lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng,
đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên
quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao.
Dịch vụ logistics được phiên âm theo tiếng Việt là dịch vụ lô-gi-stíc.”
Những kiến thức về logistics và các hoạt động logistics mới xâm
nhập vào Việt Nam trong thời gian gần đây, trước hết và chủ yếu thông
qua hoạt động của các công ty vận tải giao nhận nước ngoài và một số
người được đào tạo tại nước ngoài. Thực tế thì logistics được vận dụng
trong nhiều lĩnh vực khác nhau như kinh tế, xã hội, quân sự và trong
trong từng lĩnh vực có mục tiêu, phạm vi hoạt động cũng như tiêu chí
đánh giá là hết sức khác nhau. Nhìn từ góc độ vĩ mô, có thể hiểu logistics
theo 2 cấp độ cơ bản: cấp độ vi mô (trong lĩnh vực quản trị sản xuất của
doanh nghiệp) và cấp độ vĩ mô (như một ngành kinh tế). Trên tầm vĩ mô
thì điều quan tâm là xây dựng một mạng lưới logistics đa dạng, linh hoạt
cho phép chuyển tối ưu bộ phận sang tối ưu toàn bộ, nhằm mục đích tối
ưu hiệu quả của vòng quay tăng trưởng, vòng quay thu mua hàng hóa, sản
xuất, phân phối bán hàng, vận tải, tái chế và sử dụng lại các nguồn
nguyên vật liệu từ các công ty đơn lẻ đến toàn bộ ngành công nghiệp
thông qua sự hợp tác.

Như vậy, hoạt động logistics đóng vai trò quan trọng trong toàn bộ
quá trình sản xuất kinh doanh, lưu thông, phân phối của toàn bộ nền kinh
tế, đặc biệt là trong kinh doanh xuất nhập khẩu. Trong bối cảnh Việt Nam
trong hội nhập vào nên kinh tế thế giới, việc đẩy mạnh phát triển dịch vụ
logistics lại càng trở nên quan trọng và cần thiết.

NỘI DUNG CHÍNH
Bước vào sân chơi toàn cầu, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực logistics sẽ có cơ hội phát triển nhanh để đạt được mục tiêu của
logistics trên bình diện quốc gia là khai thác tốt nhất, hiệu quả nhất mọi
nguồn lực quốc gia trong các hoạt động vận tải, giao nhận, lưu trữ hàng
hóa và những hoạt động khác có liên quan. Để làm được điều này chúng
ta cần xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng logistics và một hệ thống các
văn bản pháp luật phù hợp để điều chỉnh các hoạt động có liên quan đến
dịch vụ logistics, tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự hoạt động và
phát triển của dịch vụ này. Nếu như trong Luật thương mại 1997 có quy
định riêng về hành vi giao nhận hàng hóa và coi đó là một hành vi thương
mại độc lập thì tới Luật thương mại 2005 việc giao nhận hàng hóa đã
được quy định cụ thể và chi tiết với tên gọi “dịch vụ logistics”. Sau đây,
chúng ta sẽ cùng tìm hiểu những nội dung pháp lý cơ bản về dịch vụ
logistics theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành:

1/ Đặc trưng pháp lý của dịch vụ logistics:
1.1/ Về chủ thể:
Chủ thể của quan hệ dịch vụ gồm hai bên: Người làm dịch vụ
logistics và khách hàng. Người làm dịch vụ phải là thương nhân, có đăng
ký kinh doanh để thực hiện dịch vụ logistics. Thủ tục đăng ký kinh doanh
được thực hiện theo các đạo luật đơn hành, phụ thuộc vào hình thức pháp
lý của thương nhân. Bằng chứng của việc đăng ký kinh doanh là thương
nhân này được cơ quan đăng ký kinh doanh cấp giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh, trong đó ghi rõ ngành nghề kinh doanh là dịch vụ logistics.
Khách hàng là những người có hàng hóa cần gửi hoặc cần nhận và
có nhu cầu sử dụng dịch vụ giao nhận. Khách hàng có thể là người vận
chuyển hoặc thậm chí có thể là người làm dịch vụ logistics khác. Như
vậy, khách hàng có thể là thương nhân hoặc không phải là thương nhân,
có thể là chủ sở hữu hàng hóa hoặc không phải là chủ sở hữu hàng hóa.
1.2/ Về nội dung:
Nội dung của dịch vụ logistics rất đa dạng, bao gồm các công việc
như:
 Nhận hàng từ người gửi để tổ chức việc vận chuyển: Đóng gói bao
bì, ghi ký mã hiệu, chuyển hàng từ kho của người gửi tới cảng, bến
tàu, bến xe và địa điểm giao hàng khác theo thỏa thuận giữa người
vận chuyển với người thuê vận chuyển.
 Làm các thủ tục, giấy tờ cần thiết (thủ tục hải quan, vận đơn vận
chuyển, làm thủ tục gửi giữ hàng hóa, làm các thủ tục nhận
hàng…) để gửi hàng hóa hoặc nhận hàng hóa được vận chuyển
đến.

 Giao hàng hóa cho người vận chuyển, xếp hàng hóa lên phương
tiện vận chuyển theo quy định, nhận hàng hóa được vận chuyển
đến.
 Tổ chức nhận hàng, lưu kho, lưu bãi, bảo quản hàng hóa hoặc thực
hiện việc giao hàng hàng hóa được vận chuyển đến cho người có
quyền nhận hàng.
1.3/ Dịch vụ logistics là một loại hoạt động dịch vụ. Thương nhân kinh
doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa được khách hàng trả tiền công và các
khoản chi phí hợp lý khác từ việc cung ứng dịch vụ.

2/ Phân loại dịch vụ logistics:
Theo điều 4 Nghị định của Chính phủ số 140/2007/NĐ-CP ngày
5/9/2007 quy định chi tiết Luật thương mại về điều kiện kinh doanh dịch
vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch
vụ logistics, dịch vụ logistics được phân loại như sau:
2.1/ Các dịch vụ logistics chủ yếu, bao gồm:
 Dịch vụ bốc xếp hàng hóa, bao gồm cả hoạt động bốc xếp
container.
 Dịch vụ kho bãi và lưu giữ hàng hóa, bao gồm cả hoạt động kinh
doanh kho bãi container và kho xử lý nguyên liệu, thiết bị.
 Dịch vụ đại lý vận tải, bao gồm cả hoạt động đại lý làm thủ tục hải
quan và lập kế hoạch bốc dỡ hàng hóa.
 Dịch vụ bổ trợ khác, bao gồm cả hoạt động tiếp nhận, lưu kho và
quản lý thông tin liên quan đến vận chuyển và lưu kho hàng hóa
trong suốt cả chuỗi logistics, hoạt động xử lý lại hàng hóa bị khách
hàng trả lại, hàng hóa tồn kho, hàng hóa quá hạn, lỗi mốt và tái
phân phối hàng hóa đó, hoạt động cho thuê và thuê mua container.
2.2/ Các dịch vụ logistics liên quan đến vận tải, bao gồm:
 Dịch vụ vận tải hàng hóa.
 Dịch vụ vận tải thủy nội địa.
 Dịch vụ vận tải hàng không.
 Dịch vụ vận tải đường sắt.
 Dịch vụ vận tải đường bộ.
 Dịch vụ vận tải đường ống.
2.3/ Các dịch vụ logistics liên quan khác, bao gồm:
 Dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật.
 Dịch vụ bưu chính.
 Dịch vụ thương mại bán buôn.
 Dịch vụ thương mại bán lẻ, bao gồm cả hoạt động quản lý hàng lưu
kho, thu gom, tập hợp, phân loại hàng hóa, phân phối và giao hàng.
 Các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác.

3/ Điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics:
Theo quy định tại điều 234 Luật thương mại 2005 thì thương nhân
kinh doanh dịch vụ logistics là doanh nghiệp có đủ đăng ký kinh doanh
dịch vụ logistics theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào sự phân loại
dịch vụ logistics, pháp luật quy định những điều kiện cụ thể đối với từng
loại dịch như logistics như sau:
3.1/ Điều kiện kinh doanh đối với thương nhân kinh doanh các dịch vụ
logistics chủ yếu:
Theo quy định tại điều 5 Nghị định của Chính phủ số
140/2007/NĐ-CP ngày 5/9/2007 quy định chi tiết Luật thương mại về
điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với
thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics, thương nhân kinh doanh dịch
vụ logistics chủ yếu phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
1. Là doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh hợp pháp theo pháp luật Việt
Nam.
2. Có đủ phương tiện, thiết bị, công cụ đảm bảo tiêu chuẩn an toàn, kỹ
thuật và có đội ngũ nhân viên đáp ứng yêu cầu.
3. Thương nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ logistics ngoài việc đáp
ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều này chỉ được kinh doanh các
dịch vụ logistics khi tuân theo điều kiện cụ thể sau đây:
– Trường hợp kinh doanh dịch vụ bốc dỡ hàng hóa thì chỉ đuợc
thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước
ngoài không quá 50%.
– Trường hợp kinh doanh dịch vụ kho bãi thì được thành lập công
ty liên doanh, trong đó tỷ lệ vốn góp của nhà đâu tư nước ngoài không
quá 51%, hạn chế này chấm dứt vào năm 2014.
– Trường hợp kinh doanh dịch vụ đại lý vận tải thì được thành lập
công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ vốn của nhà đầu tư nước ngoài không
quá 51%; được thành lập công ty liên doanh không hạn chế tỷ lệ vốn góp
của nhà đầu tư nước ngoài kể từ năm 2014.
– Trường hợp kinh doanh dịch vụ bổ trợ khác thì được thành lập
công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài
không quá 49% , hạn chế này là 51% kể từ năm 2010 và chấm dứt hạn
chế vào năm 2014.
3.2/ Điều kiện kinh doanh đối với thương nhân kinh doanh các dịch vụ
logistics liên quan đến vận tải:
Theo quy định tại điều 6 Nghị định của Chính phủ số
140/2007/NĐ-CP ngày 5/9/2007 quy định chi tiết Luật thương mại về
điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với
thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics, thương nhân kinh doanh dịch
vụ logistics liên quan đến vận tải phải đáp ứng các điều kiện sau đây:

1. Là doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh hợp pháp theo pháp luật Việt
Nam.
2. Tuân thủ các điều kiện về kinh doanh vận tải theo quy định của pháp
luật Việt Nam.
3. Thương nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ logistics ngoài việc đáp
ứng các điều kiện quy định tại các khoản 1,2 Điều này chỉ được kinh
doanh các dịch vụ logistics khi tuân theo những điều kiện cụ thể sau đây:
– Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng hải thì chỉ được
thành lập công ty liên doanh vận hành đội tàu từ năm 2009, trong đó tỷ lệ
góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%; được thành lập liên
doanh cung cấp dịch vụ vận tải biển quốc tế trong đó tỷ lệ góp vốn của
nhà đầu tư nước ngoài không quá 51%, hạn chế này chấm dứt vào năm
2012.
– Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải thủy nội địa thì chỉ được
thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước
ngoài không quá 49%.
– Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng không thì thực hiện
theo quy định của Luật hàng không dân dụng Việt Nam.
– Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải đường sắt thì chỉ được
thành lập công ty liên doanh trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước
ngoài không quá 49%.
– Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải đường bộ thì được thành
lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài
không quá 49%, hạn chế này là 51% kể từ năm 2010.
– Không được thực hiện dịch vụ vận tải đường ống, trừ trường hợp
điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên
có quy định khác.
3.3/ Điều kiện kinh doanh đối với thương nhân kinh doanh các dịch vụ
logistics liên quan khác:
Theo quy định tại điều 7 Nghị định của Chính phủ số
140/2007/NĐ-CP ngày 5/9/2007 quy định chi tiết Luật thương mại về
điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với
thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics, thương nhân kinh doanh dịch
vụ logistics liên quan khác phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
1. Là doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh hợp pháp theo pháp luật Việt
Nam.
2. Thương nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ logistics chỉ được kinh
doanh các dịch vụ logistics khi tuân theo những điều kiện cụ thể sau đây:
– Trường hợp kinh doanh dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật:
Đối với những dịch vụ được cung cấp để thực hiện thẩm quyền của
Chính phủ thì chỉ được thực hiện dưới hình thức liên doanh sau 3 năm

hoặc dưới các hình thức khác sau 5 năm, kể từ khi doanh nghiệp tư nhân
được phép kinh doanh các dịch vụ đó.
Không được kinh doanh dịch vụ kiểm định và cấp giấy chứng nhận
cho các phương tiện vận tải.
Việc thực hiện dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật bị hạn chế
hoạt động tại các khu vực địa lý được cơ quan có thẩm quyền xác định vì
lý do an ninh quốc phòng.
– Trường hợp kinh doanh dịch vụ bưu chính, dịch vụ thương mại
bán buôn, dịch vụ thương mại bán lẻ thực hiện theo quy định riêng của
Chính phủ.
– Không được thực hiện các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác, trừ trường
hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên có quy định khác.

4/ Dịch vụ logistics được thực hiện trên cơ sở hợp đồng.
Hợp đồng dịch vụ logistics là sự thỏa thuận theo đó một bên (bên
làm dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện hoặc tổ chức thực hiện một hoặc một
số dịch vụ liên quan đến quá trình lưu thông hàng hóa, còn bên kia (khách
hàng) có nghĩa vụ thanh toán thù lao dịch vụ .
Hợp đồng dịch vụ logistics là một hợp đồng song vụ, hợp đồng ưng
thuận mang tính chất đền bù. Chủ thể của hợp đồng bắt buộc một bên
(bên làm dịch vụ) phải có tư cách thương nhân; bên còn lại (khách hàng)
có thể là thương nhân mà cũng có thể là các tổ chức, cá nhân không có tư
cách thương nhân. Đối tượng của hợp đồng là các dịch vụ gắn liền với
hoạt động mua bán, vận chuyển hàng hóa như: Tổ chức việc vận chuyển
hàng hóa, giao hàng hóa cho người vận chuyển, làm các thủ tục giấy tờ
cần thiết để vận chuyển hàng hóa, nhận hàng từ người vận chuyển để giao
cho người có quyền nhận hàng… Hợp đồng không bắt buộc phải ký kết
dưới hình thức văn bản.
Tuy Luật thương mại không quy định cụ thể về các nội dung chủ
yếu của hợp đồng dịch vụ logistics nhưng với tính chất của hợp đồng dịch
vụ thì hợp đồng dịch vụ logistics thường có các điều khoản sau:
 Nội dung công việc mà khách hàng ủy nhiệm cho bên làm dịch vụ
giao nhận hàng hóa thực hiện.
 Các yêu cầu cụ thể đối với dịch vụ.
 Thù lao dịch vụ và các chi phí liên quan đến việc thực hiện dịch vụ
giao nhận hàng hóa, nghĩa vụ thanh toán thù lao và các chi phí dịch
vụ.
 Thời gian và địa điểm thực hiện dịch vụ.
 Giới hạn trách nhiệm và các trường hợp miễn trách đối với người
làm dịch vụ.
Ngoài ra, tùy từng trường hợp cụ thể, các bên có thể thỏa thuận và
ghi trong hợp đồng những nội dung khác.

5/ Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên trong quan
hệ dịch vụ logistics:
Pháp luật cũng quy định khá cụ thể về quyền, nghĩa vụ và trách
nhiệm của từng bên trong quan hệ dịch vụ logistics, thể hiện:
5.1/ Quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics:
* Theo điều 235 Luật thương mại 2005, trừ một số trường hợp có thỏa
thuận khác thì thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có các quyền và
nghĩa vụ sau đây:
– Được hưởng thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác.
– Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có lý do chính đáng vì
lợi ích của khách hàng thì thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có
thể thực hiện khác với chỉ dẫn của khách hàng, nhưng phải thông báo
ngay cho khách hàng.
– Khi xảy ra trường hợp có thể dẫn đến việc không thực hiện được
một phần hoặc toàn bộ những chỉ dẫn của khách hàng thì phải thông báo
ngay cho khách hàng để xin chỉ dẫn.
– Trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn cụ thể thực hiện
nghĩa vụ với khách hàng thì phải thực hiện các nghĩa vụ của mình trong
thời hạn hợp lý.
Khi thực hiện việc vận chuyển hàng hóa, thương nhân kinh doanh
dịch vụ logistics phải tuân thủ các quy định của pháp luật và tập quán vận
tải.
* Bên cạnh các quyền trên thì thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
còn có quyền và nghĩa vụ trong việc cầm giữ và định đoạt hàng hóa quy
định tại điều 239 và điều 240 Luật thương mại 2005, cụ thể là:
Quyền cầm giữ và định đoạt hàng hóa quy định tại điều 239 Luật
thương mại 2005:
– Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có quyền cầm giữ một
số lượng hàng hóa nhất định và các chứng từ liên quan đến số lượng hàng
hóa đó để đòi tiền nợ đã đến hạn của khách hàng nhưng phải thông báo
ngay bằng văn bản cho khách hàng.
– Sau thời hạn 45 ngày kể từ ngày thông báo cầm giữ hàng hóa
hoặc chứng từ liên quan đến hàng hóa, nếu khách hàng không trả tiền nợ
thì thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có quyền định đoạt hàng hóa
hoặc chứng từ đó theo quy định của pháp luật; trong trường hợp hàng hóa
có dấu hiệu bị hư hỏng thì thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có
quyền định đoạt hàng hóa ngay khi có bất kỳ khoản nợ đến hạn nào của
khách hàng.
– Trước khi định đoạt hàng hóa, thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics phải thông báo ngay cho khách hàng biết về việc định đoạt hàng
hóa đó.

– Mọi chi phí cầm giữ, định đoạt hàng hóa đó do khách hàng chịu.
– Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics được sử dụng số tiền
thu được từ việc định đoạt hàng hóa để thanh toán các khoản mà khách
hàng nợ mình và các chi phí có liên quan; nếu số tiền thu được từ việc
định đoạt vượt quá giá trị các khoản nợ thì số tiền vượt quá phải được trả
lại cho khách hàng. Kể từ thời điểm đó, thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics không phải chịu trách nhiệm đối với hàng hóa hoặc chứng từ đã
được định đoạt.
Theo điều 240 Luật thương mại 2005, khi chưa thực hiện quyền
định đoạt hàng hóa theo quy định tại điều 239 của Luật này, thương nhân
kinh doanh dịch vụ logistics thực hiện quyền cầm giữ hàng hóa có các
nghĩa vụ sau đây:
– Bảo quản, giữ gìn hàng hóa.
– Không được sử dụng hàng hóa nếu không được bên có hàng hóa
bị cầm giữ đồng ý.

Đang xem: Tiểu luận logistics

Xem thêm: cách root android 4.4.2 bằng máy tính

Xem thêm: Giáo Án Tình Cảm Xã Hội Đồ Dùng Bé Yêu Nghề Xây Dựng, Giáo Án Phát Triển Tình Cảm Kỹ Năng Xã Hội

– Trả lại hàng hóa khi các điều kiện cầm giữ, định đoạt hàng hóa
quy định tại điều 239 của Luật này không còn.
– Bồi thường thiệt hại cho bên có hàng hóa bị cầm giữ nếu làm mất
mát hoặc hư hỏng hàng hóa cầm giữ.
5.2/ Giới hạn trách nhiệm và các trường hợp miễn trừ trách nhiệm đối
với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics:
Việc một bên không thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ hợp đồng sẽ
làm phát sinh trách nhiệm hợp đồng. Trách nhiệm này có thể là trách
nhiệm thực hiện đúng hợp đồng; hủy hợp đồng; bồi thường các thiệt hại
phát sinh từ sự vi phạm hợp đồng hoặc phạt hợp đồng. Luật thương mại
2005 có một số quy định riêng về trách nhiệm tài sản do vi phạm hợp
đồng logistics như sau:
* Thứ nhất, về các trường hợp miễn trách nhiệm: theo điều 237 Luật
thương mại 2005, thì ngoài những trường hợp quy định tại điều 294 của
Luật này, người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa được miễn trách nhiệm
hợp đồng về những tổn thất đối với hàng hóa phát sinh trong các truờng
hợp sau đây:
– Tổn thất là do lỗi của khách hàng hoặc của người được khách
hàng ủy quyền.
– Tổn thất phát sinh do thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
làm đúng theo những chỉ dẫn của khách hàng hoặc của người được khách
hàng ủy quyền.
– Tổn thất là do khuyết tật của hàng hóa.
– Tổn thất phát sinh trong những trường hợp miễn trách nhiệm theo
quy định của pháp luật và tập quán vận tải nuế thương nhân kinh doanh
dịch vụ logistics tổ chức vận tải.

– Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không nhận được
thông báo về khiếu nại trong thời hạn 14 ngày, kể từ ngày thương nhân
kinh doanh dịch vụ logistics giao hàng cho người nhận.
– Sau khi bị khiếu nại, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
không nhận được thông báo về việc bị kiện tại Trọng tài hoặc Tòa án
trong thời hạn 9 tháng, kể từ ngày giao hàng.
Ngoài ra, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không phải
chịu trách nhiệm về việc mất khoản lợi đáng lẽ được hưởng của khách
hàng, về sự chậm trễ hoặc thực hiện dịch vụ logistics sai địa điểm không
do lỗi của mình.
* Thứ hai, về giới hạn trách nhiệm: Điều 238 Luật thương mại 2005 có
quy định như sau:
– Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, toàn bộ trách nhiệm của
thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không vượt quá giới hạn trách
nhiệm đối với tổn thất toàn bộ hàng hóa.
– Chính phủ quy định chi tiết giới hạn trách nhiệm đối với thương
nhân kinh doanh dịch vụ logistics phù hợp với các quy định của pháp luật
và tập quán quốc tế.
– Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không được hưởng
quyền giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại, nếu người có quyền và
lợi ích liên quan chứng minh được sự mất mát, hư hỏng hoặc giao trả
hàng chậm là do thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics cố ý hành
động hoặc không hành động để gây ra mất mát, hư hỏng, chậm trễ hoặc
đã hành động hoặc không hành động một cách mạo hiểm và biết rằng sự
mất mát, hư hỏng, chậm trễ đó chắc chắn xảy ra.
Với quy định tại khoản 1 điều này thì giới hạn trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa là một ngoại
lệ của chế tài bồi thường thiệt hại trong hoạt động thương mại nói chung
khi Điều 302 Luật thương mại 2005 quy định: “Giá trị bồi thường thiệt
hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu
do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ
được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”.
Một nguyên tắc chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà Bộ
luật dân sự quy định là bên vi phạm hợp đồng gây thiệt hại bao nhiêu thì
phải chịu trách nhiệm bồi thường bấy nhiêu. Ví dụ, người làm dịch vụ
logistics làm mất hàng và vì vậy, khách hàng không có hàng giao cho
người mua. Trong trường hợp này, khách hàng có thể phải chịu các thiệt
hại phát sinh bao gồm: Giá trị hàng hóa bị mất, tiền phạt hợp đồng hoặc
bồi thường thiệt hại do không có hàng giao cho người mua và khoản lợi
đáng lẽ được hưởng (nếu có hàng giao cho người mua).
5.3/ Quyền và nghĩa vụ của khách hàng:
Theo điều 236 Luật thương mại 2005 thì trừ trường hợp có thỏa
thuận khác, khách hàng có những quyền và nghĩa vụ sau đây:

– Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện hợp đồng.
– Cung cấp đầy đủ chỉ dẫn cho thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics.
– Thông tin chi tiết, đầy đủ, chính xác và kịp thời về hàng hóa cho
thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics.
– Đóng gói, ghi ký mã hiệu hàng hóa theo hợp đồng mua bán hàng
hóa, trừ trường hợp có thỏa thuận để thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics đảm nhận công việc này.
– Bồi thường thiệt hại, trả các chi phí hợp lý phát sinh cho thương
nhân kinh doanh dịch vụ logistics nếu người đó đã thực hiện đúng chỉ dẫn
của mình hoặc trong trường hợp do lỗi của mình gây ra.
– Thanh toán cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics mọi
khoản tiền đã đến hạn thanh toán.

KẾT LUẬN
Những năm gần đây logistics bắt đầu thu hút sự chú ý của các cấp
quản lý nhà nước cũng như các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
giao nhận kho vận trong và ngoài nước. Các cảng container và sân bay
của Việt Nam đã được đầu tư và quy hoạch theo chiến lược phát triển lâu
dài, các tuyến đường bộ cũng được mở rộng, nâng cấp. Tuy nhiên, cơ sở
hạ tầng và các trang thiết bị dành cho logistics còn yếu kém, lạc hậu,
thiếu đồng bộ, hệ thống kho bãi quy mô nhỏ, rời rạc; các phương tiện,
trang thiết bị như: dây chuyền, băng tải, phương tiện đóng gói, mã hóa, hệ
thống đường ống, đèn chiếu sáng… nói chung còn thô sơ, hệ thống vận
tải đường không, đường biển, đường sắt, đường bộ và đường sông còn
nhiều hạn chế, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của hoạt động logistics.
Mặt khác, đa số các doanh nghiệp có quy mô tài chính vừa và nhỏ,
ít hiểu biết về luật pháp quốc tế. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực logistics chưa tạo ra được sự liên minh, liên kết, chỉ dựa vào năng lực
sẵn có nên khả năng cạnh tranh thấp, thậm chí có tình trạng cạnh tranh
không lành mạnh giữa các đơn vị trong ngành…
Tính minh bạch của các giao dịch liên quan đến quá trình sản xuất,
vận chuyển, tồn kho và phân phối chưa cao đã tác động trực tiếp đến hiệu
quả của quá trình logistics, làm phát sinh chi phí hoặc ảnh hưởng đến uy
tín nhà cung cấp trong quá trình thực hiện logistics.
Để phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh của dịch vụ logistics
trong quá trình hội nhập, theo chúng tôi cần thực hiện một số giải pháp
sau:
– Thứ nhất, Nhà nước cần đầu tư hợp lý cho các cảng, sân bay,
cảng thông quan nội địa (ICD), đường bộ, đường sắt, đường sông, kho
bãi, trang thiệt bị, ngân hàng, bảo hiểm… theo một kế hoạch tổng thể, có
khả năng tương tác và hỗ trợ qua lại lẫn nhau một cách hiệu quả.
– Thứ hai, đầu tư và nâng cấp hạ tầng giao thông vận tải, khuyến
khích vận tải container đường sắt, chú trọng đầu tư xây dựng cảng nước
sâu trung chuyển khu vực.
– Thứ ba, chuẩn hóa các quy trình dịch vụ logistics, thông kê
logistics.
– Thứ tư, xây dựng hành lang, khung pháp lý mở và chọn lọc, đảm
bảo tính nhất quán, thông thoáng và hợp lý trong các văn bản, quy định
liên quan đến lĩnh vực logistics với mục đích tạo cơ sở cho một thị trường
logistics minh bạch.

– Thứ năm, đẩy mạnh công tác đào tạo logistics tại các truờng cao
đẳng, đại học và trên đại học theo các hướng sau:
 Mở các lớp huấn luyện nâng cao trình độ của các cán bộ nghiệp vụ
hiện tại về quản lý, khai thác kho bãi, giao nhận, đại lý vận tải…
 Mở chuyên ngành đào tạo cán bộ quản trị logistics.
 Đào tạo kỹ sư vận tải đa phương thức trên nền tảng các kỹ sư
chuyên ngành vận tải hiện nay.
– Thứ sáu, Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam (VIFFAS) cần
năng động hơn trong việc quản lý bảo vệ quyền lợi hội viên, đặc biệt là
trong việc đào tạo, gắn kết, thông tin, điều phối, hướng dẫn các thành
viên tiếp cận và xâm nhập các thị truờng nước ngoài. Cải tiến quy trình
thủ tục hải quan – xuất nhập khẩu.
– Thứ bảy, thúc đẩy và phát triển công nghệ thông tin, chuẩn trao
đổi dữ liệu điện tử trong thương mại, khai quan điện tử (EDI) để tận dụng
ưu thế của công nghệ thông tin nhằm mang lại năng suất lao động cao,
tiết kiệm chi phí, giảm thiểu tình trạng tiêu cực, gian lận trong thương
mại, xuất nhập khẩu và hải quan.
– Cuối cùng, các đơn vị trong các ngành có thể xem xét khả năng
sáp nhập và thành lập các đơn vị cung ứng dịch vụ logistics theo 3 – 4
đơn vị để đủ sức cạnh tranh với các công ty đa quốc gia.
Như vậy, trong các giải pháp nêu trên, giải pháp hoàn thiện một hệ
thống pháp luật, phù hợp từ đó thúc đẩy các hoạt động thương mại nói
chung và dịch vụ logistics nói chung là một trong những giải pháp quan
trọng, hữu hiệu nhất. Để làm được điều đó, đòi hỏi phải có sự quan tâm
hơn nữa của Đảng, Nhà nước cũng như các thương nhân tham gia vào các
hoạt đông thương mại.
Dịch vụ logistics là một vấn đề tương đối còn mới mẻ với Việt
Nam ta. Vì vậy nghiên cứu về nó đòi hỏi một quá trình đào sâu, tìm tòi,
đúc kết. Bài tập trên đây chỉ là một công trình nghiên cứu nhỏ về vấn đề
này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Luật thương mại Tập II, Trường đại học Luật Hà Nội –
Nhà xuất bản Công an nhân dân.
2. Luật thương mại 2005
3. Nghị định của Chính phủ số 140/2007/NĐ – CP ngày 5/9/2007 quy
định chi tiết Luật thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ
logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh
dịch vụ logistics.
4. Bài viết “Năm khía cạnh của logistics thế giới” của TS. Lê Văn
Bảy, Viện Kinh tế – Xã hội Tp. Hồ Chí Minh.
5. Bài viết “Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics” của ông Nguyễn
Hùng, Phó Giám đốc Công ty kho vận miền Nam (Sotrans).
6. Bài viết “Phát triển cảng biển để phát triển Logistics” của TS. Mai
Xuân Thiệu, Tổng giám đốc Công ty liên doanh Bông Sen (Lotus).
7. Bài viết “Logistics Việt Nam còn nhiều yếu kém” của ông Vũ
Xuân Phong, Tổng thư ký Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam.

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………………………………………………
Nội dung chính……………………………………………………………………………………..
1. Đặc trưng pháp lý của dịch vụ Logistics……………………………………………….
1.1. Về chủ thể………………………………………………………………………………………
1.2. Về nội dung……………………………………………………………………………………
1.3.Dịch vụ Logistics là một loại hoạt động dịch vụ…………………………………..
2. Phân loại dịch vụ logistics…………………………………………………………………..
2.1. Các dịch vụ logistics chủ yếu……………………………………………………………
2.2. Các dịch vụ logistics liên quan đến vận tải…………………………………………
2.3. Các dịch vụ logistics liên quan khác………………………………………………….
3. Điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics…………………………………………………
3.1. Điều kiện kinh doanh đối với thương nhân kinh doanh các dịch vụ
logistics chủ yếu……………………………………………………………………………………
3.2. Điều kiện kinh doanh đối với thương nhân kinh doanh các dịch vụ
ligistics liên quan đến vận tải………………………………………………………………….
3.3. Điều kiện kinh doanh đối với thương nhân kinh doanh các dịch vụ
logistics liên quan khác………………………………………………………………………….
4. Dịch vụ logistics được thực hiện trên cơ sở hợp đồng…………………………….
5. Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên trong quan hệ dịch vụ
logistics………………………………………………………………………………………………..
5.1. Quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics…………
5.2. Giới hạn trách nhiệm và các trường hợp miễn trừ trách nhiệm đối với
thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics…………………………………………………
5.3. Quyền và nghĩa vụ của khách hàng………………………………………………….
KẾT LUẬN………………………………………………………………………………………..
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………………………

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Tiểu luận