tiểu luận hệ thống ngân hàng thương mại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.6 KB, 13 trang )

Đang xem: Tiểu luận hệ thống ngân hàng thương mại việt nam

Tiểu luận

HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM
TIỂU LUẬN



HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI VIỆT NAM

GV Hướng Dẫn : TS. Lại Tiến Dĩnh
HV: Thái Thanh Bình
Lớp : K17 Ngân Hàng 1 ngày 2 năm 2007-2010

Chun đề : HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

I. Lý thuyết chung về hệ thống NHTM:

1. Định nghĩa NHTM:

Luật các tổ chức tín dụng do Quốc Hội khóa X thông qua vào ngày 12 tháng
12 năm 1997, định nghĩa:

Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn
bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan. Luật này còn
định nghĩa: Tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp được thành lập theo
quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để họat động kinh
doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng
tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.

Luật Ngân hàng Nhà Nước định nghĩa: Hoạt động ngân hàng là hoạt động
kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận
tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung cấp dịch vụ thanh toán.

2. Chức năng của NHTM:

Nhìn chung, ngân hàng thương mại có ba chức năng cơ bản: chức năng trung

gian tài chính, chức năng tạo tiền và chức năng sản xuất:

– Chức năng trung gian tài chính của NHTM: thực hiện chức năng này,
NHTM đóng vai trò trung gian khi thực hiện các nghiệp vụ bao gồm
nghiệp vụ cấp tín dụng, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ kinh doanh ngoại
tệ, kinh doanh chứng khoán và nhiều hoạt động môi giới khác. Từ “trung
gian” ở đây có thể hiểu theo hai ý nghĩa:

+ Trung gian giữa các khách hàng với nhau. Ví dụ: NHTM làm trung
gian giữa người gửi tiền và người vay tiền, hay trung gian giữa người trả
tiền và người nhận tiền, hoặc trung gian giữa người mua và người bán
ngoại tệ….
+ Trung gian giữa ngân hàng Trung ương và công chúng. Ngân hàng
Trung ương ( ở Việt Nam gọi là Ngân hàng Nhà nước) không có giao
dịch trực tiếp với công chúng mà chỉ giao dịch với các NHTM, trong khi
các NHTM vừa giao dịch với ngân hàng Trung ương vừa giao dịch với
công chúng.

– Chức năng tạo tiền, là chức năng tạo ra bút tệ góp phần gia tăng khối tiền
tệ phục vụ cho nhu cầu chu chuyển và phát triển nền kinh tế. Theo Quỹ
tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund) gọi tắt là IMF, khối tiền tệ
của một quốc gia bao gồm: tiền giấy, tiền kim loại, và tiền gửi không kỳ
hạn ở ngân hàng. Còn tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi định kỳ không được
xem là bộ phận của khối tiền tệ mà chỉ được xem là “chuẩn tiền”, vì tính
chất kém thanh khoản của bộ phận này. Nhưng từ thập niên 1980 trở đi
nhiều nhà kinh tế học bắt đầu xem “chuẩn tiền” là một thành phần của khối
tiền tệ. Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế giới (World Bank) gần như
chấp nhận quan điểm này nhưng còn ngần ngại nên phân biệt thành nhiều
dạng khối tiền tệ như M1, M2, M3 và L, trong đó:

. M1 = tiền mặt phát hành bao gồm tiền giấy và tiền kim loại cộng
tiền gửi không kỳ hạn.
. M2 = M1 + tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi định kỳ tại ngân hàng.
. M3 = M2 + tất cả các loại tiền gửi ở các định chế tài chính khác.
. L = M3 + các loại trái phiếu, thương phiếu và công cụ khác của
thị trường tiền tệ.

– Chức năng trung gian tài chính và chức năng tạo tiền là hai chức năng cơn
bản của NHTM. Trong những năm gần đây, nhiều nhà quản trị ngân hàng
còn đề cập đến chức năng “sản xuất” của NHTM, bao gồm việc huy động
và sử dụng các nguồn lực để tạo ra “sản phẩm” và dịch vụ ngân hàng cung
cấp cho nền kinh tế.

3. Phân loại NHTM:

 Dựa vào hình thức sở hữu:

 Ngân hàng thương mại Nhà nước
 Ngân hàng thương mại cổ phần
 Ngân hàng liên doanh
 Chi nhánh ngân hàng nước ngoài

 Dựa vào chiến lược kinh doanh:

 Ngân hàng bán buôn
 Ngân hàng bán lẻ
 Ngân hàng vừa bán buôn vừa bán lẻ

 Dựa vào quan hệ tổ chức:

 Ngân hàng hội sở
 Ngân hàng chi nhánh (cấp 1, cấp 2)
 Phòng giao dịch

II. Các hoạt động chủ yếu của NHTM:

1. Hoạt động huy động vốn:

NHTM được huy động vốn dưới các hình thức sau:
– Nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình
thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
– Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khácđể huy động
vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước.
– Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của các
tổ chức tín dụng nước ngoài.
– Vay vốn ngắn hạn của ngân hàng Nhà nước.
– Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của ngân hàng Nhà nước.

2. Hoạt động cấp tín dụng:

NHTM được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức sau:

– Cho vay
– Bảo lãnh
– Chiết khấu
– Cho thuê tài chính
– Bao thanh toán
– Tài trợ nhập khẩu
– Tài trợ xuất khẩu
– Cho vay thấu chi

– Cho vay theo hạn mức tín dụng và hạn mức tín dụng dự phòng

3. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ:

Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ của NHTM bao gồm các hoạt
động sau:

– Cung cấp các phương tiện thanh toán
– Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng
– Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ
– Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của ngân hàng Nhà
nước.
– Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được ngân hàng Nhà nước cho
phép.
– Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng.
– Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên
ngân hàng trong nước.
– Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được ngân hàng Nhà nước cho
phép.

4. Các hoạt động khác:

– Góp vốn và mua cổ phần
– Tham gia thị trường tiền tệ
– Kinh doanh ngoại hối
– Ủy thác và nhận ủy thác
– Cung ứng dịch vụ bảo hiểm
– Tư vấn tài chính
– Bảo quản vật quý giá

III. Thực trạng hoạt động của NHTM Việt Nam trong thời gian qua:

Ở Việt Nam hiện nay, số lượng NHTM là quá nhiều, nhất là ngân hàng nhỏ và
do đó cần hạn chế các NHTM nhỏ. Đáng chú ý là việc chính phủ nâng vốn điều
lệ các NHTM phải trên 3.000 tỷ đồng. Mức vốn này có thể là điều kiện không
cao đối với các ngân hàng quốc tế nhưng với các ngân hàng trong nước thì khó
có thể với tới. Ngoài ra, các cổ đông sáng lập phải có vốn tự có là 500 tỷ đồng
trở lên và phải hoạt động ba năm liên tục có lãi. Những quy định như vậy là cực
kỳ khắt khe đối với các NHTM Việt Nam. Thực tế cho thấy, các NHTM Việt
Nam hiện đang hoạt động và các NHTM cổ phần mới được thành lập thì người
ta mới chỉ chú tâm vào việc tăng vốn mà không hề chú ý đến cải thiện quản trị,
quản lý điều hành. Quản trị ngân hàng hầu như không được củng cố theo mô
hình NHTM hiện đại.

Ngay tại các NHTM nhà nước, tình trạng tăng vốn tự có từ ngân sách nhà nước
cũng như tốn kém nhiều tiền từ ngân sách cho xử lý nợ tồn đọng nhưng hệ
thống quản trị rủi ro vẫn kém hiệu quả hoặc không hề cải thiện, chi phí hoạt
động cao hơn các NHTM cổ phần. Thực tế cho thấy, việc tăng vốn dường như
không đi đôi với cải thiện quản trị tốt đã làm cho thị giá cố phiếu của NHTM cổ
phần giảm sút nghiêm trọng trong thời gian qua.

Nếu theo định hướng chính sách về thành lập NHTM mới là tăng vốn điều lệ thì
tới đây Việt Nam sẽ toàn những NHTM lớ. Và cũng theo suy luận khi đó Việt
Nam sẽ có hệ thống gồm toàn các “đại gia”. Tuy nhiên, từ cuộc khủng hoảng
tín dụng ở Mỹ hiện nay cho thấy, vấn đề ngân hàng lớn nhiều khi lại đáng quan
ngại hơn ngân hàng nhỏ (chỉ xét khía cạnh về vốn). Theo thống kê về hành vi
tài chính, thông thường người ta cứ cho rằng các ngân hàng to thì khó có thể đổ
vỡ được, đây là điều sai lầm. Ngay quan điểm của một quan chức ngân hàng
Nhà nước Việt Nam cũng cho rằng, điều quan trọng đối với hoạt động ngân
hàng là chất lượng chứ không phải quy mô vốn hay số lượng. Thực tế cho thấy

đối với nền kinh tế số 1 thế giới là Mỹ, một loạt vụ sụp đổ vừa rồi cũng rơi vào
những “gã khổng lồ” như: Lehman Brothers, Morgan Stanley….chứ không phải
ngân hàng nhỏ.

Thông thường người ta cho rằng, càng nhiều NHTM lớn thì doanh nghiệp nhỏ
có lợi do nguồn tài chính sẵn sàng. Tuy nhiên điều đó dường như sai lầm do các
NHTM lớn thường có quan điểm bảo thủ hơn các NHTM nhỏ và họ quan tâm
đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tại Việt Nam trong điều kiện khó khăn hiện
any, các NHTM lớn nhất là NHTM nhà nước khi lãi suất trên thị trường liên
ngân hàng tăng cao, thì các ngân hàng này dường như chỉ tập trung cho vay liên
ngân hàng mà ngừng hẳn cho vay nền kinh tế. Từ diễn biến này có lẽ là nguyên
nhân dẫn đến việc các doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ có thẻ tiếp cận các NHTM
cổ phần nhỏ với lãi suất cho vay cao hoặc là phải đóng cửa như thực trạng hiện
nay.

Việc nâng điều kiện vốn ban đầu làm khó trước tiên đến “người nhà”. Rõ ràng
với hàng rào kỹ thuật mới này, NHTM Việt Nam khó vượt qua. Khi mở cửa hội
nhập, với điều kiện này, trong vòng khoảng 10 năm tới, sự hiện diện của các
ngân hàng nước ngoài với quy mô lớn tại Việt Nam sẽ nhiều hơn khiến cạnh
tranh tại thị trường tài chính trong nước thực sự khốc liệt trong khi số lượng các
NHTM Việt Nam vẫn có con số như hiện nay.

Rõ ràng, định hướng tới một hệ thống ngân hàng lành mạnh và hiệu quả đáp
ứng ngày càng tốt nhu cầu vôn cho một nền kinh tế là rất cần thiết đối với Việt
Nam hiện nay khi chúng ta còn ở điểm khởi đầu. Tuy nhiên, định hướng về một
hệ thống ngân hàng toàn các định chế lớn khi còn tồ tại nhiều doanh nghiệp vừa
và nhỏ như Việt Nam hiên nay là cần nghiên cứu kỹ. Khi ngân hàng càng lớn
mà quản lý kém, nếu đỗ vỡ thì hậu quả là khó lường hơn là một ngân hàng nhỏ
đổ vỡ.

Nhìn chung, ở Việt Nam hiện nay, thị trường vốn ngắn hạn hay còn gọi là thị
trường tiền tệ chưa phát triển và ngân hàng Nhà nước chưa thật sự đóng vai trò
can thiệp có hiệu quả vào thị trường này. Các loại lãi suất của NHTW: lãi suất
cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở,
lãi suất đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước có tác động rõ nết đến thị trường.
Các NHTM cạnh tranh với nhau tăng lãi suất huy đông vốn một cách một chiều,
tạo nguy cơ tiềm ẩn rủi ro cho chính các NHTM.

Về thị trường chứng khoán, có thể khẳng định rằng, trong tiến trình phát triển
thị trường chứng khoán Việt Nam, tiềm năng của việc tham gia của các NHTM
là rất lớn. Việc các NHTM cổ phần niêm yết cổ phiếu trên trung tâm giao dịch
chứng khoán, các NHTMNN cổ phần hóa thực hiện phát hành cổ phiếu lần đầu
tiên ra công chúng, cũng như tới đây sẽ có thêm một số Cty kinh doanh chứng
khoán của các NHTM đi vào hoạt đông sẽ tạo đà thúc đậy thị trường chứng
khoán Việt Nam phát triển mạnh mẽ hơn. Song cho đến thời điểm này, mới chỉ
có trên 100 công ty cổ phần niêm yết cổ phiếu trên thị trung tâm giao dịch
chứng khoán TP.HCM là quá ít, tạo ra sự nghèo nàn hàng hóa trên thị trường
chứng khoán. Cổ phiếu của các NHTM chưa được niêm yết và giao dịch cũng
phần nào hạn chế tính sôi động của thị trường. tính thanh khoản của thị trường
chưa cao. Thông tin chưa thật sự minh bạch.

Nguyên nhân của tình trạng trên là do NHTW chưa thất sự mạnh, năng lực điều
hành chính sách tiền tệ và vận hành nghiệp vụ NHTW còn hạn chế. Hoạt động
dịch vụ của các NHTM chưa phát triển. Tiến trình cơ cấu lại các NHTM chưa
đạt được các kết quả như dự kiến, đặc biệt là xử lý nợ xấu đang có xu hướng gia
tăng trở lại. Việc tăng vốn điều lệ để đảm bảo tỷ lệ an toàn theo thông lệ quốc
tế. Tiến trình cổ phần hóa NHTMNN còn rất chậm, đây cũng là lực cản cho sự
phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. Bên cạnh đó, việc hội đồng quản
trị các NHTM cổ phấn có tư tưởng chần chừ, chậm đưa cổ phiếu của các
NHTM cổ phần của mình niêm yết trên trung tâm giao dịch chứng khoán cũng

làm chậm tiến trình nói trên.

Trong những năm gần đây, dưới áp lực cạnh tranh ngày càng tăng do việc áp
dụng lộ trình nới lỏng các quy định đối với các tổ chức tài chính nước ngoài,
nhất là về việc mở chi nhánh và các điểm giao dịch, việc dỡ bỏ hạn chế về huy
động tiền gửi bắng VNĐ, khả năng mở rộng dịch vụ ngân hàng và sự phát triển
bùng nổ của CNTT, các NHTM Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng
khích lệ về phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ. Nhìn chung, các ngân hàng bắt
đầu quan tâm và tập trung khai thác thị trường bán lẻ như đẩy mạnh hiện đại
hóa công nghệ ngân hàng, phát triển các loại hình dịch vụ mới, đa tiện ích và đã
được xã hội chấp nhận như máy giao dịch tự động (ATM), internet banking,
home banking, PC banking, mobile banking. Thực tế đó đã đánh dấu bước phát
triển mới của thị trường dịch vụ NHBL tại Việt Nam, làm cơ sở cho việc phát
triển dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, tỷ trọng nguồn vốn huy động từ
dân cư tăng lê đáng kể. Hình thức huy động ngày càng đa dạng và linh hoạt
hơn, lượng kiều hối qua các ngân hàng tăng mạnh. Các NHTM Việt Nam đã có
những cải thiện đáng kể về năng lực tài chính, công nghệ, quản trị điều hành,
góp phần phát triển dịch vụ NHBL, đem lại cho khách hàng ngày càng nhiều
tiện ích mới và văn minh trong thanh toán.

Đến cuối năm 2006, hầu hết các NHTM đã xây dựng phần mềm NHBL dựa
trên nền tảng quy trình xử lý nghiệp vụ thiết kế của Mỹ với mục tiêu giải phóng
khách hàng nhanh nhất bằng việc phân chia xử lý nghiệp vụ thành hai bộ phận:
Bộ phận giao dịch tại quầy và bộ phận hỗ trợ xử lý nghiệp vụ. Hệ thống này đã
tạo ra nhiều tiện ích, tài khoản của khách hàng được kết nối trên toàn hệ thống,
tạo nền tảng mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt và đưa các dịch vụ
NHBL đến tay người tiêu dùng. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, dịch vụ
NHBL của các NHTM Việt Nam còn nhiều bất cập:

– Tính cạnh tranh chưa cao, chủ yếu nhờ mở rộng mạng lưới và cạnh tranh

về giá cả và lãi suất, cạnh tranh về chất lượng dịch vụ và công nghệ chưa
phổ biến, thị trường dịch vụ NHBL thiếu ổn định chưa có sự liên kết giữa
các ngân hàng trong việc phát hành các loại thẻ và khai thác dịch vụ mới,
do các ngân hàng chưa tìm được tiếng nói chung để đi đến thỏa thuận kết
nối thống nhất nhằm chia sẻ hạ tầng kỹ thuật, gây lãng phí trong việc đầu
tư mua sắm máy móc và chưa tạo sự thuận lợi cho khách hàng trong việc
sử dụng thẻ.
– Sản phẩm dịch vụ ngân hàng còn mang tính truyền thống, nghèo nàn về
chủng loại, chất lượng dịch vụ thấp, tính tiện ích chưa cao, chưa định
hướng theo nhu cầu khách hàng.
– Chưa có chiến lược tiếp thị cụ thể trong hoạt động NHBL, thiếu đội ngũ
cán bộ chuyên nghiệp về tiếp thị dịch vụ NHBL.
– Kênh phân phối không đa dạng, hiệu quả thấp, phương thức giao dịch và
cung cấp các dịch vụ chủ yếu vẫn là giao dịch trực tiếp tại quầy, các hình
thức giao dịch từ xa dựa trên nền tảng CNTT chưa phổ biến. Dịch vụ ngân
hàng điện tử chưa được triển khai rộng rãi, lượng khách hàng sử dụng còn
ít, nhiều ngân hàng mới chỉ hoạt động ở mức độ thử nghiệm, giao dịch
thanh toán thương mại điện tử còn hạn chế, chưa ứng dụng được hình thức
thanh toán qua điện thoại di động sử dụng tài khoản ngân hàng.
– Hiệu quả của chính sách khách hàng còn thấp, chất lượng dịch vụ chưa
cao, thủ tục giao dịch chưa thật sự thuận tiện, bộ máy tổ chức chưa theo
định hướng khách hàng, thiếu bộ phận nghiên cứu thiết kế sản phẩm và
phát triển dịch vụ ngân hàng cá nhân, mức độ ứng dụng CNTT chưa cao.

Những nguyên nhân chủ yếu sau đã làm hạn chế phát triển dịch vụ NHBL ở
Việt Nam:

– Nét đặc thù của dịch vụ ngân hàng bán lẻ là nhắm tới đối tượng khách
hàng cá nhân, song người dân trong nước chưa biết nhiều về dịch vụ ngân
hàng nói chung và dịch vụ NHBL nói riêng. Do mức thu nhập của phần

lớn dân cư còn thấp, thói quen sử dụng tiền mặt còn phổ biến nên khả năng
phát triển và mở rộng dịch vụ NHBL còn hạn chế.
– Môi trường pháp lý về hoạt động ngân hàng chưa thật sự phù hợp với tình
hình thực tế. Các văn bản pháp quy về hoạt động ngân hàng chủ yếu được
xây dựng trên cơ sở các giao dịch thủ công với nhiều loại giấy tờ và quy
trình xử lý nghiệp vụ phức tạp. Trong khi đó, phát triển dịch vụ NHBL đòi
hỏi phải áp dụng công nghệ mới và quy trình nghiệp vụ hiện đại, nhanh
chóng. Với tốc độ phát triển dịch vụ như hiện nay, nhiều quy định pháp lý
đã tỏ ra bất cập và không bao hàm hết các mặt nghiệp vụ, gây khó khăn
cho các NHTM khi muốn triển khai dịch vụ mới.
– Về phía các NHTM, các ngân hàng chưa xây dựng được chiến lược đồng
bộ về phát triển dịch vụ NHBL, sản phẩm và dịch vụ NHBL còn đơn điệu,
chưa đáp ứng nhu cầu của khách hàng, bộ máy tổ chức chưa xây dựng theo
định hướng khách hàng, chưa có đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp về nghiệp
vụ NHBL, mạng lưới kênh cung cấp dịch vụ còn mỏng, nền tảng công
nghệ và khả năng ứng dụng công nghệ mới còn hạn chế.

IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ CHO PHÁT TRIỂN NHTM VIỆT
NAM TRONG THỜI GIAN TỚI:

– Việt Nam không thể đẩy quá nhanh việc xây dựng thị trường tài chính,
cũng như thị trường chứng khoán vượt lên trên sự phát triển chung của nền
kinh tế, tức là phải phát triển đồng bộ. Chúng ta không nên nôn nóng cũng
như không thể ngồi chờ cho đủ điều kiện được. Như chúng ta đã biết, thị
trường tiền tệ và thị trường chứng khoán có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Khi lãi suất trên thị trường tiền tệ tăng lên, khi thị trường tiền tệ
nóng lên, thì thị trường chứng khoán cũng sôi động. Phát triển thị trường
tiền tệ, làm tăng tốc độ chu chuyển vốn ngắn hạn trong nền kinh tế, nâng
cao khả năng kinh doanh trên thị trường tiền tệ của các tổ chức trung gian
tài chính, tạo điều kiện cho các tổ chức này sẵn sàng tham gia có hiệu quả

trên thị trường chứng khoán.
– Ngân hàng nhà nước và Bộ tài chính, trực tiếp là Ủy ban chứng khoán Nhà
nước phải phối hợp chặt chẽ để đưa cổ phiếu của NHTM cổ phần niêm yết
trên trung tâm giao dịch chứng khoán. Phối hợp chặt chẽ, trên cơ sở tài trợ
quốc tế, tổ chức các cuộc hội thảo, khóa đào tạo, tập huấn ngắn ngày về
nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán và niêm yết cổ phiếu của NHTM trên
thị trường chứng khoán. Bộ tài chính cũng nên cùng NHNN tập trung tháo
gỡ vướng mắt trong việc định giá NHTM và một số giải pháp khác để đẩy
nhanh tiến độ cổ phần hóa NHTMNN.
– Ngân hàng Nhà nước và Bộ tài chính phối hợp tăng khối lượng tín phiếu
Kho bạc nhà nước đấu thầu hàng quý, hàng năm. Có thể tăng tần suất các
phiên đấu thầu từ 1phiên/1tuần hiện nay lên 2phiên/tuần. Linh hoạt hơn
nữa lãi suất đấu thầu qua các phiên theo sát diễn biến trên thị trường. Thời
hạn tín phiếu cũng có thể đa dạng hơn như kỳ hạn 60 ngày, 90 ngày….thay
cho chỉ có loại 360 ngày như hiện nay. Cần có cơ chế để các NHTM cổ
phần và các ngân hàng khác có quy mô nhỏ hơn có thể trúng thầu tín phiếu
trên thị trường này.
– NHNN nâng cấp thị trường nội tệ liên ngân hàng, thể hiện rõ vai trò can
thiệp cuối cùng của NHNN trên thị trường này. Tiến tới công bố được lãi
suất thị trường nội tệ liên ngân hàng ở Việt Nam do là lãi suất chủ đạo của
Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
– Các NHTM phải mạnh dạn đầu tư hơn nữa cho các nghiêp vụ kinh doanh
chứng khoán và thu hút tiền gửi không kỳ hạn, dịch vụ thanh toán cho
khách hàng. Đây cũng chính là các nhà đầu tư cá nhân trên thị trường
chứng khoán trong thời gian tới, cũng như là khách hàng tiềm năng của
nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán mà NHTM cần nhắm tới thu hút.
– Phải hoàn thiện các quy định pháp lý về nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng.
Các quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động ngân hàng do nhiều cấp và
nhiều cơ quan ban hành, điều này đòi hỏi phải hoàn thiện môi trường pháp
lý một cánh đầy đủ, đồng bộ và thống nhất về các loại hình dịch vụ theo

Xem thêm: Hướng Dẫn Các Cách Hủy Hẹn Giờ Tắt Máy Tính Win 10, 12 Cách Giúp Hẹn Giờ Tắt Máy Trên Windows 10

hướng đơn giản, dễ hiểu, dễ phổ cập, phù hợp với thông lệ và chuẩn mực
quốc tế, đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng của ngân hàng và khách hàng.
– Đa dạng hóa các kênh phân phối và thực hiện phân phối có hiệu quả.
Trong xu thế hội nhập, cạnh tranh trên thị trường NHBL ngày cáng gay
gắt, phát triển dịch vụ NHBL được xác định là một định hướng chiến lược
quan trọng của các NHTM Việt Nam. Trong đó, việc phát triển các kênh
phân phối là một trong những giải pháp tiên quyết, đòi hỏi phải tích cực
phát triển mạng lưới các chi nhánh cấp 1 và cấp 2, chú trọng mở rộng thêm
các phòng giao dịch vệ tinh với quy mô gọn nhẹ. Bên cạnh việc duy trì và
mở rộng các kênh phân phối truyền thống như các chi nhánh, các phòng
giao dịch, các NHTM cần nghiên cứu và ứng dụng các kênh phân phối
hiện đại, đồng thời tăng cường quản lý phân phối nhằm tối đa hóa vai trò
của từng kênh phân phối một cách có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu giao dịch
ở mọi lúc, mọi nơi như:
+ Tăng cường hiệu quả và khả năng tự phục vụ của hệ thống máy ATM
nhằm cung cấp nhiều loại dịch vụ khác nhau với chi phí rẻ hơn, nâng cấp
hệ thống ATM thành những ngân hàng thu nhỏ trải đều khắp các tỉnh,
thành phố. Đồng thời phát triển mạng lưới các điểm chấp nhận thẻ (POS)
và tăng cường liên kết giữa các NHTM để nâng cao hiệu quả và mở rộng
khả năng sử dụng thẻ ATM.
+ Phát triển loại hình ngân hàng qua máy tính và ngân hàng tại nhà nhằm
tận dụng sự phát triển của máy tính cá nhân và khả năng kết nối internet.
Trong đó, các NHTM cần sớm đưa ra các loại dịch vụ mới để khách hàng
có thể đặt lệnh, thực hiện thanh toán, truy vấn số dư các dịch vụ khác…
+ Phát triển loại hình ngân hàng qua điện thoại, đầy là mô hình phổ biến
với chi phí rất thấp, tiện lợi cho cả khách hàng và ngân hàng. Khách hàng
có thể thực hiện giao dịch bất cứ thời gian nào, địa điểm nào.

– Phải đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ của NHTM:
+ Đa hạng hóa sản phẩm là điểm mạnh và mũi nhọn để phát triển dịch vụ

ngân hàng cá nhân, hình thành bộ phận nghiên cứu chuyên trách phát
triển sản phẩm. Trong đó, tập trung vào những sản phẩm có hàm lượng
công nghệ cao, có đặc điểm nổi trội trên trên thị trường nhằm tạo sự khác
biệt trong cạnh tranh, tận dụng các kênh phân phối mới để đa dạng hóa
sản phẩm, mở rộng và phát triển tín dụng tiêu dùng.
+ Phát triển và mở rộng các sản phẩm dịch vụ thanh toán không dùng tiền
mặt nhằm phát huy hiệu quả và tính năng kỹ thuật của công nghệ mới,
góp phần hạn chế giao dịch tiền mặt bất hợp pháp, nhanh chóng nâng cao
tính thanh khoản của VNĐ và hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế.
Đẩy mạnh các dịch vụ tài khoản tiền gửi với thủ tục đơn giản, an toàn
nhằm thu hút nguồn vốn của cá nhân trong thanh toán và phát triển dịch
vụ thanh toán thẻ, sec thanh toán cá nhân, đẩy mạnh huy động vốn qua
tài khoản tiết kiệm. Các NHTM cũng cần tăng cường hợp tác với các tổ
chức và doanh nghiệp có các khoản thanh toán dịch vụ thường xuyên, ổn
định số lượng khách hàng và trả lương qua tài khoản. NHNN cần sớm
ban hành và hoàn thiện các văn bản pháp quy về thanh toán với cơ chế
khuyến khích hơn là ngăn cấm như cho phép thu phí giao dịch tiền mặt
cao hơn giao dịch chuyển khoản, hiện đại hóa hệ thống thanh toán điện tử
liên ngân hàng nhằm hình thành hệ thống thanh toán thống nhất và an
toàn.
+ Phát triển các sản phẩm, dịch vụ khác như tăng cường thu hút nguồn
kiều hối trên cơ sở phối hợp với các công ty xuất khẩu lao động, các công
ty dịch vụ kiều hối, tổ chức chuyển tiền ở nước ngoài, các ngân hàng đại
lý nước ngoài. Tăng cường bán chéo sản phẩm dịch vụ giữa ngân hàng và
các công ty bảo hiểm.

– Phải tăng cường hoạt động tiếp thị và chăm sóc khách hàng. Do phần lớn
đối tượng phục vụ của dịch vụ NHBL là các cá nhân, việc quảng bá, tiếp
thị các sản phẩm dịch vụ đóng vai trò cực kỳ quan trọng, có lợi cho cả
ngân hàng và khách hàng. Tăng cường chuyển tải thông tin tới công chúng

nhằm giúp khách hàng có thông tin cập nhật về năng lực và uy tín của ngân
hàng, hiểu biết cơ bản về dịch vụ NHBL, nắm được cách thức sử dụng và
lợi ích của các sản phẩm dịch vụ ngân hàng.

– Các giải pháp khác:

+ NHNN và các NHTM cần phối hợp với Tổng cục thống kê trong việc
xây dựng danh mục dịch vụ NHBL theo chuẩn mực quốc tế, làm cơ sở để xây
dưng hệ thống báo cáo định kỳ về các loại hình dịch vụ cụ thể, góp phần nâng
cao chất lượng quản trị điều hành.
+ Phải chú trọng đào tạo nguồn nhân lực sử dụng nguồn nhân lực có hiệu
quả.

Tài liệu liên quan

*

Phân tích cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.pdf 95 1 9

*

Tăng cường năng lực cạnh tranh của hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam .pdf 83 592 1

*

Tài liệu Tiểu luận: ” Nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam ” ppt 30 1 8

*

luận văn thạc sỹ giải pháp cho hệ thống ngân hàng thương mại việt nam trước xu thế sáp nhập hợp nhất và mua lại ở một số công ty nhà nước 121 1 4

*

khóa luận tốt nghiệp nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng hướng tới chuẩn mực quốc tế basel 2 tại hệ thống ngân hàng thương mại việt nam 106 917 0

*

Tiểu luận ngân hàng: Hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam 39 757 0

*

Luận án tiến sĩ kinh tế quản lý rủi ro lãi suất tại hệ thống ngân hàng thương mại việt nam 224 995 0

*

Luận văn: Phân tích cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam doc 95 314 0

*

Tiểu luận HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM pdf 13 3 7

Xem thêm: giải phương trình chứa căn bậc 3 và căn bậc 2

*

TIỂU LUẬN hệ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 20 414 1

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Tiểu luận