tiểu luận : giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.33 KB, 15 trang )

Đang xem: Tiểu luận : giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại

BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI – MODULE 2

A. fdĐẶT VẤN ĐỀ
Trước những đòi hỏi khách quan về đa dạng hóa các hình thức và phương thức giải
quyết tranh chấp trong kinh doanh phù hợp với đặc điểm của cơ chế thị trường, cũng
như góp phần đẩy nhanh hội nhập quốc tế, Quốc hội đã ban hành Luật trọng tài năm
2010 tạo điều kiện cho sự phát triển của trọng tài thương mại ở nước ta, giúp giải quyết
nhanh chóng các tranh chấp thương mại, giảm bớt gánh nặng của Tòa án…Trọng tài
thương mại đã trở thành một trong những hình thức giải quyết tranh chấp thương mại
phổ biến góp phần tạo nên một môi trường kinh tế lành mạnh, hợp tác và phát triển
không chỉ trong mà cả ngoài nước. Để hiểu rõ hơn về trọng tài thương mại, dưới đây
chúng ta sẽ cùng tìm hiểu đề tài “ trọng tài thương mại – một hình thức giải quyết tranh
chấp thương mại”.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. LÍ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
1. Khái niệm trọng tài thương mại
Trước tiên để hiểu được khái niệm trọng tài thương mại chúng ta cần làm rõ thế nào
là trọng tài, khái niệm thương mại là gì và thế nào là tranh chấp thương mại?
Định nghĩa sớm nhất về trọng tài được nêu trong Công ước La – Hay năm 1988, theo
đó: “Trọng tài là nhằm để giải quyết những bất đồng giữa các bên thông qua một người
thứ ba do chính các bên lựa chọn trên cơ sở tôn trọng luật pháp”. Theo giáo sư
Ph.Farrchar thuộc trường đại học Pans II thì: “Trọng tài là một phương thức giải quyết
tranh chấp, theo đó các bên giao cho một cá nhân (trọng tài viên) thẩm quyền giải
quyết tranh chấp phát sinh giữa họ với nhau”.Tóm lại, có thể hiểu trọng tài là phương
thức giải quyết một số hoặc toàn bộ các tranh chấp đã và sẽ phát sinh giữa các bên mà
pháp luật cho phép được giải quyết bằng một cơ quan xét xử do các bên thoả thuận lập
ra.
Về hoạt động thương mại, trong phần chú thích của Điều 1 Luật mẫu UNCITRAL,
người ta cho rằng “khái niệm thương mại cần phải được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm
các vấn đề phát sinh từ tất cả các quan hệ có bản chất thương mại, dù có hợp đồng hay
không. Quan hệ có bản chất thương mại bao hàm nhưng không chỉ giới hạn với các

giao dịch sau đây: bất kì giao dịch buôn bán nào nhằm cung cấp hoặc trao đổi hàng
hoá hay dịch vụ, hợp đồng phân phối; đại diện thương mại hay đại lý, các công việc
sản xuất, thuê máy móc thiết bị, xây dựng, tư vấn thiết kế cơ khí, li-xăng. đầu tư, ngân
hàng, tài chính, bảo hiểm, các hợp đồng khai thác hoặc chuyển nhượng, liên doanh và
các hình thức khác của hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh, vận tải hàng hoá hoặc
HỌ VÀ TÊN: VŨ THỊ Ý

MSSV: 342637

LỚP N04- TL3 –N3

Page 1

BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI – MODULE 2

hành khách bằng đường không, đường biển, đường sắt hoặc đường bộ”.Còn tại khoản 1
Điều 3 Luật Thương mại Việt Nam quy định rõ: “hoạt động thương mại là hoạt động
nhằm mục đích sinh lời, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến
thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lời khác”.
Về tranh chấp thương mại, hệ thống pháp luật Việt Nam đã tồn tại những khái niệm
khác nhau về tranh chấp thương mại, nhưng có thể hiểu tranh chấp thương mại là những
mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình
thực hiện các hoạt động thương mại. Tranh chấp thương mại phải hội tụ đủ các yếu tố
sau: tranh chấp thương mại trước hết là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa
vụ giữa các bên trong mối quan hệ cụ thể; những mâu thuẫn, bất đồng đó phải phát sinh
từ hoạt động thương mại; những mâu thuẫn, bất đồng đó phát sinh chủ yếu giữa các
thương nhân.
Như vậy, trọng tài thương mại là quá trình giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh
vực thương mại do các bên tự nguyện lựa chọn trong đó bên thứ ba trung lập (trọng tài)

sau khi nghe các bên trình bày sẽ đưa ra một quyết định (phán quyết trọng tài) có tính
chất bắt buộc đối với các bên tranh chấp. Cụ thể tại khoản 1 Điều 3 Luật trọng tài
thương mại năm 2010 đã định nghĩa ngắn gọn “Trọng tài thương mại là phương thức
giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật
này”.
2. Các hình thức trọng tài thương mại
Theo luật Trọng tài thương mại 2010 thì trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình
thức, đó là trọng tài vụ việc (trọng tài add-hoc) và trọng tài quy chế.
2.1 Trọng tài vụ việc
Theo khoản 7 Điều 3 Luật trọng tài thương mại năm 2010 thì “Trọng tài vụ việc là
hình thức giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật này và trình tự, thủ tục do các
bên thoả thuận”. Như vậy trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do các bên tranh
chấp thỏa thuận thành lập để giải quyết vụ tranh chấp và giữa các bên trọng tài sẽ tự
chấm dứt tồn tại khi giải quyết xong vụ tranh chấp.
Bản chất của trọng tài vụ việc được thực hiện qua những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất: Trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự chấm
dứt hoạt động khi giải quyết xong tranh chấp.
Thứ hai: Trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều hành
(vì chỉ được thành lập để giải quyết tranh chấp theo sự thỏa thuận của các bên) và không
HỌ VÀ TÊN: VŨ THỊ Ý

MSSV: 342637

LỚP N04- TL3 –N3

Page 2

BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI – MODULE 2

có danh sách trọng tài viên. Trọng tài viên được các bên chọn hoặc chỉ định có thể là
người có tên trong hoặc ngoài danh sách trọng tài viên của bất cứ trung tâm trọng tài
nào.
Thứ ba: Trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình. Trọng tài
vụ việc chỉ được các bên thành lập khi phát sinh tranh chấp nên quy tắc tố tụng để giải
quyết tranh chấp phải được các bên thỏa thuận xây dựng.
So với hình thức khác, trọng tài vụ việc có một số ưu thế sau: Có thể giải quyết một
cách nhanh chóng vụ tranh chấp và ít tốn kém; Quyền lựa chon trọng tài viên của các
bên đương sự không bị giới hạn bởi danh sách trọng tài viên sẵn có mà có thể lựa chọn
bất kì trọng tài nào trong và ngoài danh sách trọng tài viên của bất kì trung tâm trọng tài
nào; Các bên tranh chấp có quyền rộng rãi trong việc xác định quy tắc tố tụng để giải
quyết tranh chấp giữa các bên.
2.2 Trọng tài quy chế
Theo khoản 6 Điều 3 Luật trọng tài thương mại năm 2010 thì “Trọng tài quy chế là
hình thức giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài theo quy định của Luật này
và quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài đó”.
Trọng tài quy chế được tổ chức dưới dạng các trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng
tài là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài khoản riêng và có
trụ sở giao dịch ổn định. Các trung tâm trọng tài có một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, các trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, không nằm trong hệ thống
cơ quan nhà nước. Các trung tâm trọng tài được thành lập theo sáng kiến của các trọng
tài viên sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép, chứ không phải được
thành lập bởi nhà nước. Các trung tâm trọng tài không nằm trong hệ thống các cơ quan
quản lí nhà nước cũng không thuộc hệ thống cơ quan xét sử.
Thư hai: Các trung tâm trọng tài có tư các pháp nhân, tồn tại độc lập nhau với đủ
điều kiện của một pháp nhân, bao gồm: được thành lập hợp pháp , có cơ cấu tổ chức
chặt chẽ; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài
sản đó; nhân danh mình tham gia các quan hệ một cánh độc lập (Điều 84 Bộ luật dân sự
năm 2005).
Thứ ba: Tổ chức và quản lí ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ. Cơ cấu tổ

chức của trung tâm trọng tài gồm có ban điều hành và các trọng tài viên của trung tâm.
Thứ tư: mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có quy tắc tố
tụng riêng.
HỌ VÀ TÊN: VŨ THỊ Ý

MSSV: 342637

LỚP N04- TL3 –N3

Page 3

BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI – MODULE 2

Thứ năm: Hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các trọng tài
viên của trung tâm.
Hình thức trọng tài quy chế có rất nhiều ưu điểm, với một điều lệ và quy tắc tố tụng
độc lập, tương đối ổn định, với thực tiễn và kinh nghiệm phong phú được tích luỹ qua
quá trình giải quyết các vụ việc tranh chấp, với một đội ngũ những trọng tài viên là
những chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau (thương mại quốc tế, hàng hải quốc
tế, thanh toán quốc tế, luật quốc tế…) khiến cho quá trình tố tụng diễn ra một cách
nhanh chóng và hiệu quả. Do đó, các tổ chức trọng tài phi chính phủ này đã được thành
lập ở rất nhiều nước trên thế giới.
3. Thành lập trung tâm trọng tài
3.1 Điều kiện thành lập trung tâm trọng tài
Theo khoản 1 Điều 24 Luật trọng tài thương mại năm 2010 thì: “Trung tâm trọng tài
được thành lập khi có ít nhất năm sáng lập viên là công dân Việt Nam có đủ điều kiện
là Trọng tài viên quy định tại Điều 20 của Luật này đề nghị thành lập và được Bộ
trưởng Bộ Tư pháp cấp Giấy phép thành lập”. Như vậy để thành lập trung tâm trọng tài
thương mại cần các điều kiện sau đây:

Thứ nhất: Phải có ít nhất năm sáng lập viên là công dân Việt Nam có đủ điều kiện là
Trọng tài viên.
Ít nhất năm trọng tài viên phải là công dân Việt Nam, những trọng tài viên này phải
có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của Bộ luật dân sự; có trình độ đại học
và đã qua thực tế công tác theo ngành đã học từ 5 năm trở lên; trong trường hợp đặc
biệt, chuyên gia có trình độ chuyên môn cao và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, tuy
không đáp ứng được yêu cầu nêu tại điểm b khoản này, cũng có thể được chọn làm
Trọng tài viên (Điều 20 Luật trọng tài thương mại năm 2010)
Ngoài các điều kiện nêu trên những trương hợp sau đây không được làm trọng tài
viên:
+ Người đang là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Chấp hành viên, công
chức thuộc Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi
hành án;
+ Người đang là bị can, bị cáo, người đang chấp hành án hình sự hoặc đã chấp hành
xong bản án nhưng chưa được xóa án tích (khoản 2 Điều 20 Luật trọng tài thương mại
2010).

HỌ VÀ TÊN: VŨ THỊ Ý

MSSV: 342637

LỚP N04- TL3 –N3

Page 4

BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI – MODULE 2

Như vậy, điểm mới của Luật trọng tài thương mại 2010 so với Pháp lệnh trọng tài
thương mại về điều kiện của Trọng tài viên là tuy không đáp ứng được yêu cầu có trình

độ đại học và đã qua thực tế công tác theo ngành đã học từ 5 năm trở lên nhưng trong
trường hợp đặc biệt, chuyên gia có trình độ chuyên môn cao và có nhiều kinh nghiệm
thực tiễn cũng có thể trở thành trọng tài viên, ngoài ra, luật cũng bổ sung thêm điều mới
tại khoản 3 Điều 20 để tăng tính linh hoạt: “Trung tâm trọng tài có thể quy định thêm
các tiêu chuẩn cao hơn tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều này đối với Trọng tài viên
của tổ chức mình”. Thực tiễn trọng tài ở nhiều quốc gia cho thấy đội ngũ trọng tài viên
khá đa dạng, không chỉ giới hạn luật gia mà còn bao gồm các chuyên gia trên nhiều lĩnh
vự khác nhau, trong đó các thương nhân cũng chiếm vị trí quan trọng. Sự tham gia rộng
rãi của các thương nhân và các chuyên gia trên nhiều lĩnh vực không chỉ trong quá trình
hình thành các trung tâm trọng tài mà cả trong quá trình hoạt động của trung tâm đã góp
phần không nhỏ vào hoạt động của các trung tâm trọng tài trên thế giới.
Thứ hai: Được Bộ trưởng bộ Tư pháp cấp giấy phép thành lập.
Để thành lập được trung tâm trọng tài cần phải có giấy phéo thành lập do Bộ trưởng
bộ Tư pháp cấp. Các luật gia là trọng tài viên phải có giấy phép hành nghề theo quy
định của pháp luật.
Có thể thấy Luật thương mại năm 2010 đã bỏ nhiều điều kiện thành lập trung tâm
trọng tài theo Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003: Thứ nhất, bỏ điều kiện chỉ
được thành lập trung tâm trọng tài ở một số địa phương theo quy định của Chính phủ.
Quy định này phù hợp với thực tiễn hoạt động trọng tài thương mại trong điều kiện kinh
tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, các trung tâm trọng tài được thành lập với số lượng
nhiều hơn, ở nhiều địa điểm hơn để đáp ứng nhu cầu giải quyết các vụ tranh chấp không
chỉ trong mà còn ngoài nước. Thư hai: Trong điều kiện thành lập trung tâm trọng tài,
Luật trọng tài thương mại 2010 không đề cập đến việc phải được Hội luật gia giới thiệu.
Pháp lệnh trọng tài thương mại đề cao vai trò của Hội luật gia Việt Nam trong việc xem
xét điều kiện thành lập trung tâm trọng tài nhưng Luật trọng tài thương mại 2010 thì đã
tạo một cơ chế thoáng hơn phù hợp với điều kiện hội nhập của nước ta.
3.2 Thủ tục thành lập trung tâm trọng tài
*) Xin phép thành lập
Muốn thành lập trung tâm trọng tài, các sáng lập viên đủ điều kiện làm sáng lập viên
phải gửi hai bộ hố sơ đề nghị thành lập trung tâm trọng tài đến Bộ tư pháp.Hồ sơ gồm

các giấy tờ sau:
HỌ VÀ TÊN: VŨ THỊ Ý

MSSV: 342637

LỚP N04- TL3 –N3

Page 5

BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI – MODULE 2

– Đơn đề nghị thành lập trung tâm trọng tài.
– Dự thảo điều lệ của Trung tâm trọng tài theo mẫu do Bộ Tư pháp ban hành;
– Danh sách các sáng lập viên và các giấy tờ kèm theo chứng minh những người này
có đủ điều kiện quy định tại Điều 20 của Luật trọng tài thương mại 2010.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ và hợp lệ, Bộ trưởng Bộ
Tư pháp cấp Giấy phép thành lập Trung tâm trọng tài và phê chuẩn điều lệ của Trung
tâm trọng tài đồng thời có công văn thông báo kèm theo bản sao giấy phép thành lập
trung tâm trọng tài gửi sở tư pháp; trường hợp từ chối phải trả lời bằng văn bản và nêu
rõ lý do.
*) Đăng kí hoạt động
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được Giấy phép thành lập, Trung tâm trọng
tài phải đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi
Trung tâm trọng tài đặt trụ sở. Hết thời hạn này nếu Trung tâm trọng tài không đăng ký
thì giấy phép không còn giá trị..
Theo Điều 7 Nghị định của Chính phủ số 25/2004/NĐ-CP ngày 15/1/2004 thì hồ sơ
đăng ký hoạt động gồm các giấy tờ sau đây: Đơn đăng ký hoạt động, trong đó ghi rõ địa
điểm dự định đặt trụ sở của Trung tâm Trọng tài; Bản sao có công chứng hoặc chứng
thực hợp lệ Giấy phép thành lập Trung tâm Trọng tài; Danh sách Trọng tài viên của

Trung tâm Trọng tài.
Theo Luật trọng tài thương mại 2010 thì Sở Tư pháp cấp Giấy đăng ký hoạt động
cho Trung tâm trọng tài chậm nhất 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu đăng ký. Kể
từ thời điểm được cấp giấy đăng kí hoạt động, trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân
và được phép hoạt động. Sau thời điểm này, trung tâm trọng tài thực hiện mở thủ tục tài
khoản và khắc con dấu theo quy định của pháp luật.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy đăng ký hoạt động, Trung tâm
trọng tài phải đăng báo hằng ngày của trung ương hoặc báo địa phương nơi đăng ký
hoạt động trong ba số liên tiếp về những nội dung chủ yếu sau đây:
– Tên, địa chỉ trụ sở của Trung tâm trọng tài;
– Lĩnh vực hoạt động của Trung tâm trọng tài;
– Số giấy đăng ký hoạt động, cơ quan cấp, ngày, tháng, năm cấp;
– Thời điểm bắt đầu hoạt động của Trung tâm trọng tài.
Nội dung đăng báo nêu trên phải được niêm yết cùng danh sách trọng tài viên của
trung tâm trọng tài tại trụ sở của trung tâm trọng tài.
HỌ VÀ TÊN: VŨ THỊ Ý

MSSV: 342637

LỚP N04- TL3 –N3

Page 6

BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI – MODULE 2

Trong quá trình hoạt động được thay đổi nội dung giấy phép thành lập, giấy đăng kí
hoạt động. Khi thay đổi tên gọi hay lĩnh vực hoạt động trung tâm trọng tài phải làm đơn
xin phép Bộ tư pháp. Bộ tư pháp xem xét chấp thuận hay không trong thời hạn 15 ngày
kể từ ngày nhận được đơn xin phép thay đổi nội dung giấy phép thành lập. Trường hợp

được Bộ tư pháp chấp thuận việc thay đổi thì trung tâm trọng tài phải đăng kí việc thay
đổi tại sở tư pháp trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày văn bản chấp thuận việc thay đổi
nội dung giấy phép có hiệu lực. Trường hợp thay đổi chủ tịch trung tâm trọng tài, địa
điểm đặt trụ sở hoặc danh sách trọng tài viên thì trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày phải
thay đổi thông báo cho bộ tư pháp và sở tư pháp, nơi trung tâm trọng tài đăng kí thành
lập.
3.3 Chi nhánh, văn phòng đại diện của trung tâm trọng tài
Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của trung tâm trọng tài, có nhiệm vụ thực hiện một
phần hay toàn bộ chức năng của trung tâm trọng tài, kể cả nhiệm vụ đại diên theo ủy
quyền. Trung tâm trọng tài được thành lập chi nhánh ở trong và ngoài tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương, nơi trung tâm trọng tài đặt trụ sở và phải chịu trách nhiệm về
hoạt động của chi nhánh. Hoạt động của chi nhánh phải phù hợp với lĩnh vực hoạt động
được ghi trong giấy phép thành lập, giấy đăng kí hoạt động của trung tâm trọng tài.
Trung tâm trọng tài cử một thành viên làm trưởng chi nhánh và phải đăng kí hoạt động
của chi nhánh tại sở tư pháp nơi đặt chi nhánh.
Hồ sơ đăng kí gồm: Đơn đăng kí hoạt động, trong đó phải ghi rõ địa chỉ dự định đặt
chi nhánh; Bản sao có công chứng hoặc chứng thực hợp lệ giấy phép thành lập, giấy
đăng kí hoạt động của trung tâm trọng tài; quyết định của trung tâm trọng tài về việc cử
trưởng chi nhánh; danh sách trọng tài viên của chi nhánh.
Sở tư pháp có trách nhiệm cấp giấy đăng kí hoạt động cho chi nhánh trong thời hạn 7
ngày, kể từ ngày nhận hồ sơ hợp lệ.
Chi nhánh trung tâm trọng tài được hoạt động kể từ ngày được cấp giấy đăng kí hoạt
động. Trung tâm trọng tài phải thông báo bằng văn bản về việc lập chi nhánh của trung
tâm trọng tài cho Bộ tư pháp trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày chi nhánh được cấp giấy
đăng kí hoạt động. Trường hợp lập chi nhánh ở ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương, nơi trung tâm trọng tài đặt trụ sở thì trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày chi
nhánh được cấp giấy đăng kí hoạt động, trung tâm trọng tài thông báo bằng văn bản về
việc lập chi nhánh cho sở tư pháp, nơi trung tâm trọng tài đặt trụ sở.

HỌ VÀ TÊN: VŨ THỊ Ý

MSSV: 342637

LỚP N04- TL3 –N3

Page 7

BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI – MODULE 2

Trung tâm trọng tài phải đăng kí thông báo hàng ngày của trung ương hoặc báo địa
phương, nơi đăng kí hoạt động của chi nhánh trong ba số liên tiếp về việc lập chi nhánh.
Thời hạn đăng báo là 30 ngày, kể từ chi nhánh được cấp giấy đăng kí hoạt động.
Văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của trung tâm trọng tài, đại diện cho trung
tâm trọng tài trong các giao dịch của trung tâm ủy quyền.Trung tâm trọng tài được lập
văn phòng đại diện ở trong và ngoài tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, nơi trung
tâm trọng tài đặt.
Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày lập văn phòng đại diện, trung tâm trọng tài phải
thông báo bằng văn bản về việc lập văn phòng đại diện tư pháp, nơi trung tâm trọng tài
đặt trụ sở và sở tư pháp, nơi đặt văn phòng đại diện.
Trung tâm trọng tài phải chịu trách nhiệm về hoạt động của văn phòng đại diện. Về
nguyên tắc, trung tâm trọng tài chỉ được ủy quyền cho văn phòng đại diện làm đại diện
cho trung tâm trong các giao dịch phù hợp với lĩnh vực hoạt động của trung tâm trọng
tài.
4.Chấm dứt hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện và trung tâm trọng
tài
4.1Chấm dứt hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện
Chi nhánh của trung tâm trọng tài chấm dứt hoạt động trong các trường hợp sau đây:
Theo quyết định của trung tâm trọng tài
Đây là trường hợp chấm dứt hoạt động của chi nhánh theo ý chí của trung tâm trọng

tài. Lập chi nhánh là quyền của trung tâm trọng tài thì chấm dứt hoạt động của chi
nhánh cũng thuộc toàn quyền quyết định của trung tâm trọng tài. Bởi vậy, hoạt động của
chi nhánh phải chấm dứt theo quyết định của trung tâm trọng tài;
Trung tâm trọng tài lập chi nhánh chấm dứt hoạt động
Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của trung tâm trọng tài. Do vậy, khi trung tâm trọng
tài chấm dứt hoạt động thì đương nhiên kéo theo sự chấm dứt hoạt động của chi nhánh
trung tâm. Trường hợp này, trung tâm trọng tài phải hoàn tất thủ tục chấm dứt hoạt động
của chi nhánh trước khi chấm dứt hoạt động của trung tâm trọng tài.
Bị thu hồi giấy phép đăng kí hoạt động do vi phạm nghiêm trọng pháp luật
trọng tài
Đây là trường hợp chấm dứt bắt buộc theo ý chí của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định thu hồi giấy đăng kí hoạt động của chi nhánh, khi chi nhánh vi phạm
nghiêm trọng các quy định của Luật trọng tài thương mại 2010. Trường hợp này, trung
HỌ VÀ TÊN: VŨ THỊ Ý

MSSV: 342637

LỚP N04- TL3 –N3

Page 8

BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI – MODULE 2

tâm trọng tài phải chấm dứt hoạt động của chi nhánh theo thủ tục quy định của pháp
luật.
Trung tâm trọng tài lập chi nhánh phải thông báo bằng văn bản Bộ tư pháp, sở tư
pháp nơi trung tâm trọng tài đặt trụ sở và sở tư pháp, nơi đặt chi nhánh về việc chấm dứt
hoạt động của chi nhánh. Trung tâm trọng tài phải nộp lại giấy đăng kí hoạt động và con
dấu của chi nhánh cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền đồng thời đăng báo hàng ngày

của trung ương hoặc báo địa phương nơi đăng kí hoạt động của chi nhánh trong ba số
liên tiếp về việc chấm dứt hoạt động của chi nhánh.
Văn phòng đại diện chấm dứt hoạt động theo quyết định của trọng tài.
Chậm nhất 7 ngày trước thời điểm dự kiến hoạt động của văn phòng đại diện, trung
tâm trọng tài phải thông báo về việc chấm dứt hoạt động của văn phòng đại diện cho sở
tư pháp, nơi trung tâm trọng tài đặt trụ sở và sở tư pháp, nơi đặt văn phòng đại diện.
4.2 Chấm dứt hoạt động của trung tâm trọng tài
Theo Điều 29 Luật trọng tài thương mại 2010, hoạt động của trung tâm trọng tài
chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
Các trường hợp quy định tại điều lệ trung tâm trọng tài
Bị thu hồi Giấy phép thành lập, Giấy đăng ký hoạt động
Trình tự, thủ tục chấm dứt hoạt động của trung tâm trọng tài được thực hiện như sau:

Trường hợp chấm dứt hoạt động theo quy định tại điều lệ của trung tâm trọng
tài thì chậm nhất 30 ngày trước thời điểm dự kiến chấm dứt hoạt động, trung tâm trọng
tài phải thông báo bằng văn bản về việc chấm dứt hoạt động của Bộ tư pháp, Hội luật
gia Việt Nam và sở tư pháp, nơi trung tâm trọng tài đăng kí hoạt động đồng thời phải
đăng báo hàng ngày của trung ương hoặc báo địa phương, nơi đăng kí hoạt động của
trung tâm trọng tài.
Trong thời điểm chấm dứt hoạt động, trung tâm trọng tài phải thanh toán xong các
khoản nợ và hoàn tất các vụ việc đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trong thời
hạn 7 ngày, kể từ ngày hoàn tất các thủ tục này, trung tâm trọng tài báo cáo bằng văn
bản về việc hoàn tất các thủ tục đó cho Bộ tư pháp.
Bộ tư pháp ra quyết định về việc chấm dứt hoạt động của trung tâm trọng tài trong
thời hạn 7 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo của trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng
tài nộp lại giấy đăng kí hoạt động và con dấu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Trường hợp trung tâm trọng tài bị thu hồi giấy phép thành lập thì trong thời hạn
10 ngày, kể từ ngày có Quyết định thu hồi, trung tâm trọng tài phải đăng báo hàng ngày
HỌ VÀ TÊN: VŨ THỊ Ý

MSSV: 342637

LỚP N04- TL3 –N3

Page 9

BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI – MODULE 2

của trung ương hoặc báo địa phương nơi đăng kí hoạt động trong ba số liên tiếp về việc
chấm dứt hoạt động của trung tâm trọng tài.
Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày có quyết định về việc thu hồi giấy phép thành
lập, trung tâm trọng tài phải thanh toán xong các khoản nợ và hoàn tất các vụ việc đã
nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày hoàn tất các
thủ tục này, trung tâm trọng tài báo cáo bằng văn bản về việc hoàn tất các thủ tục đó cho
Bộ tư pháp, sở tư pháp, nơi trung tâm trọng tài đăng kí hoạt động. Trung tâm trọng tài
nộp lại giấy phép thành lập, giấy đăng kí hoạt động và con dấu cho cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
II. Thực tiễn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại ở Việt Nam và
một số kiến nghị liên quan.
1.Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại ở Việt
Nam
1.1 Trọng tài thương mại – một phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả
Doanh nghiệp Việt Nam biết đến trọng tài như một phương thức hữu hiệu để giải
quyết tranh chấp thương mại quốc tế từ đầu những năm 1960, khi mà Việt Nam thành
lập 2 tổ chức trọng tài bên cạnh Phòng Thương mại và phòng Công nghiệp Việt Nam:
Hội đồng trọng tài ngoại thương năm 1963 và Hội đồng trọng tải hàng hải năm 1964.
Đến năm 1993 hai tổ chức trọng tài thường trực này đã được hợp nhất thành Trung tâm
trọng tài Quốc tế Việt Nam (viết tắt tiếng Anh là VIAC) như ngày nay. Trong bối cảnh

phát triển kinh tế và hội nhập của Việt Nam và nhất là trước ngưỡng cửa Việt Nam đã
gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì các doanh nghiệp (DN) đang có xu
hướng lựa chọn trọng tài là cơ quan giải quyết những tranh chấp thương mại, bởi ưu
điểm nhanh, rẻ, kín đáo và được quốc tế công nhận. Theo luật sư Trần Hữu Huỳnh, Phó
chủ tịch VIAC, trong năm 2007, VIAC đã nhận được 30 vụ kiện, thụ lý 25 vụ, tương
đương năm 2006. Trong số đó, có tới 80% các vụ tranh chấp được xử lý liên quan tới
các điều khoản của hợp đồng mua bán; các vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài chiếm
phần lớn. Sở dĩ trọng tài thương mại đang có một vị thế quan trọng trong giải quyết
tranh chấp thương mại bởi những ưu điểm mà nó có như:
Thứ nhất, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tôn trọng ý chí của các bên
đương sự. Các bên có quyền lựa chọn trọng tài viên, chọn thủ tục trọng tài nhằm giải
quyết một cách có hiệu quả nhất tranh chấp mà ít tốn chi phí về mặt thời gian cũng như
tài chính. Việc giải quyết tranh chấp có thể được tiến hành bởi một trọng tài viên hay
một hội đồng trọng tài tuỳ thuộc vào sự thoả thuận của các bên.
HỌ VÀ TÊN: VŨ THỊ Ý

MSSV: 342637

LỚP N04- TL3 –N3

Page 10

BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI – MODULE 2

Thứ hai, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có tính ràng buộc các bên
đương sự về mặt pháp lý. Điều đó làm cho cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
hữu hiệu hơn biện pháp hoà giải hay thương lượng. Hoà giải hay thương lượng chỉ
mang tính chất khuyến nghị chứ không có tính ràng buộc thực hiện về mặt pháp lý đối
với các bên tranh chấp. Còn quyết định trọng tài mang hiệu lực pháp luật, các bên có

nghĩa vụ phải thi hành.
Thứ ba, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài linh hoạt hơn toà án. Trong cơ
chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, các trọng tài viên được các bên lựa chọn có
quyền xét xử và ra các quyết định xét xử một cách hoàn toàn độc lập trên cơ sở chứng
cứ, tài liệu mà các bên cung cấp hoặc có được bằng con đường khác như trọng tài viên
tự điều tra xem xét hay giám định viên và nhân chứng cung cấp trên cơ sở những quy
định của pháp luật. Do đó, trong tố tụng trọng tài, các bên có quyền tự do lựa chọn trọng
tài viên, lựa chọn cơ quan trọng tài giải quyết khi có tranh chấp.
Thứ tư, tố tụng trọng tài thường nhanh chóng hơn so với tố tụng toà án. Đặc điểm
của tố tụng trọng tài là chỉ xét xử một lần và phán quyết có giá trị trung thẩm, chỉ trong
một số trường hợp đặc biệt thì toà án mới xem xét lại quyết định trọng tài. Đối với các
tranh chấp thương mại thì sự nhanh gọn của hình thức giải quyết này là một lý do các
bên tranh chấp thường hay chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp.
Thứ năm, trọng tài hoạt động theo nguyên tắc xử kín tức là không cần phải đưa các
vấn đề tranh chấp, cơ sở của các quyết định trọng tài về vụ tranh chấp vào quyết định
trọng tài Trọng tài không cần phải xét xử công khai như toà án nếu các bên yêu cầu.
Nhờ vậy mà có thể giữ được bí mật những chi tiết, số liệu, thông tin cụ thể mà các bên
tranh chấp không muốn công khai (liên quan đến bí mật công nghệ…) giúp tránh được
những hậu quả khôn lường và thiệt hại sau này cho các bên tranh chấp.
Với những đặc điểm và vai trò như vậy của mình, biện pháp trọng tài đã đáp ứng
được yêu cầu đề ra đối với việc giải quyết tranh chấp phát sinh trong quan hệ pháp luật
dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài nói chung và trong quan hệ quốc tế nói
riêng. Có thể nói, trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp mang tính khả thi nhất
và là phương thức phổ biến nhất để giải quyết các tranh chấp thương mại nhằm ổn định
và thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
1.2 Trọng tài thương mại ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế
Tại hội thảo giải quyết các tranh chấp kinh tế, ông Hoàng Thế Liên, Thứ trưởng Bộ
Tư pháp đã nhấn mạnh doanh nghiệp Việt Nam hiện nay không mấy mặn mà với trọng
HỌ VÀ TÊN: VŨ THỊ Ý

MSSV: 342637

LỚP N04- TL3 –N3

Page 11

BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI – MODULE 2

tài thương mại. Thậm chí, có nhiều doanh nghiệp trong nước còn không biết đến sự có
mặt của trung tâm trọng tài. Mỗi năm, Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC)
cũng chỉ xử lý được 20-25 vụ. Các trung tâm khác khoảng năm đến bảy vụ, thậm chí có
trung tâm không có vụ nào. Đây là tình trạng chung, kể cả đối với các cơ quan tòa án,
viện kiểm sát, thi hành án. Vậy nguyên nhân xuất phát từ đâu?
Thứ nhất: do tâm lí các doanh nghiệp và sự thiếu niềm tin vào trọng tài. Hầu hết các
doanh nghiệp đều cho rằng đã tranh chấp thì phải ra Tòa mới đảm bảo vì thế nhiều
doanh nghiệp thậm chí không biết đến hình thức giải quyết bằng phương thức trọng tài
hoặc ngại tìm đến trọng tài. Theo thống kê của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam,
trong khoảng 2 năm trở lại đây, trong các vụ tranh chấp thương mại, có đến gần 60% vụ
việc xảy ra giữa các doanh nghiệp trong nước với các đối tác nước ngoài và doanh
nghiệp Việt Nam thường thua thiệt trước các doanh nghiệp nước ngoài do thiếu kinh
nghiệm thương trường. Điều này khiến doanh nghiệp Việt Nam không tin tưởng lắm
vào các hệ thống giải quyết các tranh chấp pháp lý nói chung, cũng như trung tâm trọng
tài nói riêng.
Thứ hai: nguyên nhân thực trạng này là theo Luật trọng tài thương mại, trọng tài chỉ
có thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong phạm vi hoạt động thương mại. Điều này đã
làm các trung tâm Trọng tài mất đi một lượng khách đáng kể trong các lĩnh vực ngoài
hoạt động thương mại.
Ngoài ra, mặc dù, theo Luật trọng tài thương mại và Bộ luật Tố tụng dân sự, quyết
định Trọng tài có giá trị thi hành như một bản án nhưng Pháp lệnh Thi hành án lại

Xem thêm: Phương Trình Và Hệ Phương Trình Bậc Nhất Nhiều Ẩn, Hệ Phương Trình Bậc Nhất Nhiều Ẩn

không quy định điều này. Thế nên, cơ quan thi hành án hoàn toàn có thể vin vào Pháp
lệnh Thi hành án để không thi hành các quyết định trọng tài. Và như vậy, khách hàng lại
tin tưởng vào toà án nhiều hơn. Điều này lại không phù hợp với thiết chế trọng tài trên
thế giới.
Thứ ba: Bản thân chính các trung tâm trọng tài hoạt động chưa hiệu. Với hầu hết
những Trung tâm đang tồn tại, việc triển khai thi hành Luật cũng hầu như mới chỉ dừng
lại ở việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ hoạt động và Quy tắc tố tụng. Vì vậy số lượng các vụ
tranh chấp mà trung tâm trọng tài xử rất ít. Theo báo cáo của Trung tâm Trọng tài
Thương mại TP. Hồ Chí Minh, thì trong 6 tháng đầu năm 2004, Trung tâm chưa giải
quyết vụ việc nào. Trong năm 2003, Trung tâm Trọng tài Kinh tế Hà Nội (tiền thân của
Trung tâm Trọng tài Thương mại Hà Nội) giải quyết được 2 vụ.

HỌ VÀ TÊN: VŨ THỊ Ý

MSSV: 342637

LỚP N04- TL3 –N3

Page 12

BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI – MODULE 2

Có thể nói hoạt động trọng tài thương mại trong những năm qua hầu như chỉ tập
trung tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam. Riêng trong năm 2004, Trung tâm này đã thụ lý 26 vụ kiện, tăng
85,7% so với năm 2003 (14 vụ), tăng 62,5% so với năm 2002 (16 vụ), tăng 85,7% so
với năm 2001 (14 vụ)… Trong đó, số vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài là 18 vụ
(chiếm 69%), còn lại 8 vụ tranh chấp trong nước, kể cả tranh chấp trong công ty liên
doanh (chiếm 31%). Điểm đáng lưu ý là so với năm 2003 và các năm trước, số vụ tranh

chấp được đưa ra tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam đã có sự tăng đều cả về các
tranh chấp có yếu tố nước ngoài và tranh chấp trong nước. Số vụ tranh chấp trong nước
đã chiếm tới 31%, trong khi những năm trước con số này chỉ khoảng dưới 10%. Tuy
nhiên, theo như nhận định của Trung tâm thì con số 26 vụ kiện thụ lý năm 2004 vẫn
không phải là nhiều nếu so với các nước trong khu vực, chưa tương xứng với số lượng
các giao dịch thương mại đang diễn ra tại Việt Nam và vẫn chưa có sự gia tăng đột biến
như mong đợi, vì vẫn nằm trong phạm vi bình quân 20 vụ/năm.
2.Một số kiến nghị có liên quan đến giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ở Việt
Nam
Kiến nghị hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại ở Việt Nam
Trước tiên là về đối tượng xét xử của trọng tài. Luật trọng tài thương mại 2010 đã đề
cập rõ về khái niệm “thương mại” nhưng vẫn chưa đề cập đến những đối tượng không
được xét xử bằng trọng tài. Có một số loại tranh chấp liên quan đến quyền con người,
tình trạng cá nhân, phá sản, phát minh, nhãn hiệu hàng hoá…không được phép giải
quyết bằng trọng tài. Chúng ta không cho phép giải quyết bằng trọng tài các tranh chấp
nói trên là bởi lẽ các tranh chấp đó không chỉ liên quan đến quyền lợi các bên đương sự
trong tranh chấp mà còn liên quan tới quyền lợi của bên thứ ba hoặc lợi ích công cộng.
Do đó, các văn bản dưới luật qui định chi tiết về việc thi hành Pháp lệnh trọng tài cần
phải có qui định về vấn đề này. Chúng ta nên qui định rõ những lĩnh vực nào không
được xét xử bằng trọng tài để đảm bảo được lợi ích công cộng.
Trong luật trọng tài thương mại qui định rằng các tranh chấp giữa các thương nhân
Việt Nam thì phải được giải quyết bằng pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, hệ thống pháp
luật của chúng ta còn thiếu rất nhiều và nếu như pháp luật Việt nam chưa có quy định về
những tranh chấp đó thì ta sẽ áp dụng qui định nào để giải quyết những tranh chấp giữa
các thương nhân Việt Nam? Do vậy, chúng ta có thể quy định cho phép áp dụng một số
nguồn luật khác để giải quyết tranh chấp. Ví dụ các có thể áp dụng các tập quán thương
HỌ VÀ TÊN: VŨ THỊ Ý

MSSV: 342637

LỚP N04- TL3 –N3

Page 13

BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI – MODULE 2

mại như Incoterms để giải quyết tranh chấp về hợp đồng giao hàng theo các điều kiện
của nó (CIF, FOB, CFR, DDU, DDP,…) vì trên thực tế không thể hiểu được những điều
kiện cơ sở giao hàng này dựa trên pháp luật Việt Nam.
kiến nghị đối với các trung tâm trọng tài ở Việt Nam
Thứ nhất là về bộ máy tổ chức. Ngoài VIAC ra, các trung tâm trọng tài ở Việt Nam
còn chưa chú trọng trong công tác xây dựng bộ máy tổ chức quản lý trung tâm. Cần xây
dựng một bộ máy tổ chức với cơ cấu gọn nhẹ nhưng hiệu quả, tránh cồng kềnh, chồng
chéo. Ban giám đốc, thư ký phải là những người có năng lực trong quản lý cũng như
trong chuyên môn. Các trọng tài viên được lựa chọn mọt cách cẩn thận, kỹ càng nhằm
đảm bảo những người này không những là những chuyên gia trong các lĩnh vực của
mình mà còn phải là người có đạo đức tốt, công minh, chính trực, xét xử một cách vô
tư, không thiên vị. Có như vậy thì phán quyết mà trọng tài đưa ra mới đảm bảo tính
khách quan. Từ đó mới tạo lòng tin đối với các thương nhân khi giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, là về thủ tục xét xử của các trung tâm. Thủ tục xét xử phải linh hoạt, chặt
chẽ, nhanh chóng, đơn giản để dễ dàng cho các bên trong qua trình tranh tụng, tiết kiệm
thời gian, chi phí cho các bên.
Cuối cùng là vấn đề phí trọng tài. Theo như ý kiến của các doanh nghiệp thì phí
trọng tài ở Việt Nam còn cao hơn so với phí toà án. Các doanh nghiệp Việt Nam thường
làm các thương vụ có giá trị nhỏ, nhiều khi do chi phí kiện tụng quá lớn cho nên tuy có
tranh chấp nhưng cũng đành không đưa ra giải quyết tại trọng tài. Các trung tâm trọng
tài không nên đưa ra một biểu phí chung như hiện nay mà nên tuỳ theo trị giá vụ kiện
mà thu phí sao cho phù hợp.
Kiến nghị đối với các doanh nghiệp khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài

Hiện nay, do những ưu điểm của trọng tài như một phương pháp giải quyết tranh
chấp nhanh gọn, khẩn trương, bảo toàn bí mật… nên đã có nhiều doanh nghiệp chọn lựa
giải quyết tranh chấp trong thương mại bằng trọng tài. Tuy nhiên, do không hiểu rõ về
phương pháp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài mà đã chịu nhiều thiệt thòi do sự lựa
chọn của mình.
Do vậy, thứ nhất, khi thoả thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì thoả thuận
trọng tài phải có đủ các nội dung cơ bản, cần thiết đảm bảo tổ chức trọng tài được lựa
chọn sẽ có đủ điều kiện để đứng ra giải quyết tranh chấp, tránh những trường hợp đáng
tiếc xảy ra.

HỌ VÀ TÊN: VŨ THỊ Ý

MSSV: 342637

LỚP N04- TL3 –N3

Page 14

BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI – MODULE 2

Thứ hai, doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào một thoả thuận trọng tài cần nẵm
rõ quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài mà mình thoả thuận đưa tranh chấp nếu có phát
sinh. Khi đã nắm rõ qui tắc tố tụng, các doanh nghiệp sẽ tận dụng được các ưu điểm của
qua trình trọng tài, hạn chế được nhược điểm của qúa trình này đảm bảo tổ chức trọng
tài được lựa chọn sẽ thụ lý hồ sơ, phán quyết do tổ chức trọng tài này ra sẽ có giá trị thi
hành…Như vậy, khi xảy ra tranh chấp sẽ được giải quyết một cách nhanh chóng, công
bằng, bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Còn trong trường hợp, các doanh nghiệp Việt Nam bị kiện ra trọng tài thì nên nhờ
cậy tới sự giúp đỡ của các chuyên gia, cố vấn, luật sư, trọng tài viên có uy tín trong lĩnh

vực tranh chấp để có giải pháp hợp lý kịp thời nhằm bảo vệ lợi ích của mình. Các doanh
nghiệp cần phải có mặt tại phiên xét xử để phát biểu, biện hộ. Ngoài ra cần tìm ra những
chứng cứ thuyết phục để đưa ra trước trọng tài để tự biện hộ cho mình chứ không nên sử
dụng những biện pháp gian lận.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Với tính chất nhanh chóng, mềm dẻo, linh hoạt, hiệu quả cũng như những ưu thế
khác trong việc giải quyết tranh chấp thương mại vốn cần nhanh gọn, chính xác và ít tốn
kém, nên trọng tài ngày càng được các nhà kinh doanh trên thế giới quan tâm và sử
dụng trong việc giải quyết tranh chấp. Trong khuôn khổ Liên Hợp Quốc, UNCITRAL
đã tiến hành soạn thảo các quy chế mẫu về thể lệ trọng tài để các quốc gia thành viên áp
dụng. Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài chưa có lịch sử phát triển
lâu đời ở Việt Nam nhưng chúng ta cũng không ngừng ban hành và sửa đổi các quy định
về trọng tài đặc biệt là Luật trọng tài năm 2010 giúp khung pháp lý về cơ chế giải quyết
tranh chấp thương mại bằng trọng tài khá hoàn chỉnh và không ngừng được cải thiện
phù hợp ở Việt Nam.

HỌ VÀ TÊN: VŨ THỊ Ý

MSSV: 342637

LỚP N04- TL3 –N3

Page 15

Tài liệu liên quan

*

Trọng tài thương mại – một hình thức giải quyết tranh chấp thương mại ..9 điểm.doc 16 1 12

*

Trọng tài thương mại, một phương thức giải quyết tranh chấp.doc 16 798 4

*

Trọng tài kinh tế-một hình thức giải quyết tranh chấp kinh tế 37 439 0

*

Trọng tài thương mại – một hình thức giải quyết tranh chấp thương mại 16 1 6

*

SO SÁNH PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG HOÀ GIẢI VÀ PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI 5 12 108

*

Trọng tài thương mai – một hình thức giải quyết tranh chấp thương mại 17 723 2

*

Trọng tài kinh tế – một hình thức giải quyết tranh chấp kinh tế 36 480 0

*

Luận văn: TRỌNG TÀI KINH TẾ MỘT HÌNH THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ pot 33 338 0

*

PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI potx 21 729 4

*

khóa luận tốt nghiệp các phương thức giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế 95 782 1

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Xem thêm: Giải Bài Tập Khoa Học Lớp 4 Tập 2, Giải Vbt Khoa Học 4 Hay Nhất

(46.13 KB – 15 trang) – Tiểu luận trọng tài thương mại – một hình thức giải quyết tranh chấp thương mại

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Tiểu luận