Cơ Sở Lý Luận Của Quan Điểm Toàn Diện

Đề tài: “Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện và sự vận dụng quan điểm toàn diện của đảng cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước.”

Đang xem: Tiểu luận cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể

*

hướng dẫnVui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phép biện chứng duy vật là phương pháp triết học duy vật biện chứng và các khoa học nói chung. Theo Ph.Ănghen:”Phép biện chứng là phương pháp màđiều căn bản là nó xem xét những sự vật và nhữn phản ánh của chúng trong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng”. Là cơ sở của nhận thức lý luận tự giác, phép biện chứng duy vật là phương pháp dùng để nghiên cứu toàn diện và sâu sắc những…

Xem thêm: Diện Tích Đầm Sen – Công Viên Văn Hóa Đầm Sen

*

Nội dung Text: Đề tài: “Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện và sự vận dụng quan điểm toàn diện của đảng cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước.”

Xem thêm: hướng dẫn Mẫu Slide Bảo Vệ Luận Văn Thạc Sĩ, Mẫu Slide Luận Văn Thạc Sĩ

Đề tài: “Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàndiện và sự vận dụng quan điểm toàn diện của đảng cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước.” 1 Môn: Triết học Hãy phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện và sự vậndụng quan điểm toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệpđổi mới đất nước. Phép biện chứng duy vật là phương pháp triết học duy vật biện chứngvà các khoa học nói chung. Theo Ph.Ănghen:”Phép biện chứng là phươngpháp màđiều căn bản là nó xem xét những sự vật và nhữn phản ánh của chúngtrong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràngbuộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng”. Là cơ sở củanhận thức lý luận tự giác, phép biện chứng duy vật là phương pháp dùng đểnghiên cứu toàn diện và sâu sắc những mâu thuẫn trong sự phát triển của hiệnthực, đưa lại chìa khoáđể nghiên cứu tổng thể những quá trình phức tạp của tựnhiên, xã hội và tư duy. Vì vậy, phép biện chứng duy vật được áp dụng phổbiến trong lĩnh vực và có vai trò quyết định trong sự vật, hiện tượng. Phépbiện chứng duy vật không chỉđưa ra hướng nghiên cứu chung, đưa ra cácnguyên tắc tiếp cận sự vật, hiện tượng nghiên cứu màđồng thời còn làđiểmxuất phát đểđánh giá những kết quảđạt được. Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổbiến – một trong hai nguyên lý cơ bản của phép duy vật biện chứng. Đây làmột phạm trù của phép biện chứng duy vật dùng để chỉ sự quy định, tác độngqua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng hay giữa các mặtcủa một sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Triết học Mác khẳng định: Cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật, hiệntượng là thuộc tính thống nhất vật chất của thế giới. Các sự vật, hiện tượngdùđa dạng và khác nhau đến mấy thì chúng chỉ là những dạng tồn tại khác 2nhau của một thế giới duy nhất là vật chất mà thôi. Ngay bản thân ý thức vốnkhông phải là vật chát nhưng cũng chỉ là sự phát triển đến đỉnh cao của mộtthuộc tính, của một dạng vật chất có tổ chức cao nhất là bộóc con người, nộidung của ý thức có mối liên hệ chặt chẽ với thế giới bên ngoài. Theo triết học Mác, mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng là kháchquan vốn có của bản thân chúng, đồng thời mối liên hệ còn mang tính phổbiến và tính phổ biến ấy được thể hiện ở những vấn đề sau đây: Xét về mặt không gian, mỗi sự vật hiện tượng là một chỉnh thể riêngbiệt, song chúng tồn tại không phải trong trạng biệt lập tách rời tuyệt đối vớicác sự vật hiện tượng khác. Ngược lại, trong sự tồn tại của mình thì chúng tácđộng lẫn nhau và nhận sự tác động của các sự vật hiện tượng khác. Chúng vừaphụ thuộc nhau, chếước nhau, làm tiền đề cho nhau tồn tại và phát triển. Đóchính là hai mặt của quá trình tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng.Ănghen đã khẳng định: “Tất cả thế giới mà chúng ta có thể nghiên cứu đượclà một hệ thống, một tập hợp gồm các vật thể liên hệ khăng khít với nhau vàviệc các vật thểấy có mối liên hệ qua lại với nhau đã có nghĩa là các vật thểnày tác động qua lại lẫn nhau và sự tác động qua lại ấy chính là sự vận động”. Trong đời sống xã hội ngày nay không có một quốc gia, dân tộc nào màkhông có mối quan hệ, liên hệ với quốc gia, dân tộc khác về mọi mặt của đờisống xã hội. Đây chính là sự tồn tại, phát triển cho mỗi quốc gia, dân tộc.Trên thế giới đã vàđang xuất hiện xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá mọimặt của đời sống xã hội. Các quốc gia dân tộc ngày càng phụ thuộc lẫn nhau,tác động lẫn nhau trên con đường phát triển của mình. Xét về mặt cấu tạo, cấu trúc bên trong của sự vật hiện tượng thì mỗi sựvật hiện tượng đều được tạo thành bởi nhiều nhân tố, nhiều bộ phận khácnhau và các nhân tố, bộ phận đó không tồn tại riêng lẻ mà chúng được tổ chứcsắp xếp theo một lôgíc nhất định, trật tự nhất định để tạo thành chỉnh thể. Mỗibiện pháp, yếu tố trong đó mà có vai trò vị trí riêng của mình, lại vừa tạo điều 3kiện cho các bộ phận, yếu tố khác. Nghĩa là giữa chúng có sựảnh hưởng, ràngbuộc tác động lẫn nhau, sự biến đổi bộ phận nào đó trong cấu trúc của sự vậthiện tượng sẽảnh hưởng đến bộ phận khác vàđối với cả chỉnh thể sự vật, hiệntượng. Xét về mặt thời gian, mỗi một sự vật hiện tượng nói riêng và cả thế giớinói chung trong sự tồn tại, phát triển của mình đều phải trải qua các giai đoạn,các thời kỳ khác nhau và các giai đoạn đó không tách rời nhau, có liên hệ làmtiền đề cho nhau, sự kết thúc của giai đoạn này làm mởđầu cho giai đoạn kháctiếp theo. Điều này thể hiện rõ trong mối liên hệ giữa quá khứ – hiện tại -tương lai (hiện tại chẳng qua là bước tiếp theo của quá khứ và là bàn đạp chotương lai). Qua điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định tính khách quan,tính phổ biến vốn có của sự liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, các quá trìnhmà nó còn nêu rõ tính phong phú, đa dạng và phức tạp của mối liên hệ qua lạiđó. Khi nghiên cứu hiện thực khách quan có thể phân chia mối liên hệ thànhtừng loại khác nhau tuỳ tính chất phức tạp hay đơn giản, phạm vi rộng hayhẹp, trình độ nông hay sâu, vai trò trực tiếp hay gián tiếp… khái quát lại cónhững mối liên hệ sau đây: mối liên hệ bên trong – bên ngoài, chủ yếu – thứyếu, chung – riêng, trực tiếp – gián tiếp, bản chất – không bản chất, ngẫunhiên- tất nhiên. Trong đó có những mối liên hệ bên trong, trực tiếp, chủ yếu,bản chất và tất nhiên bao giờ cũng giữ vai trò quan trọng, quyết định cho sựtồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. Triết học Mác xít đồng thời cũngthừa nhận rằng các mối liên hệ khác nhau có khả năng chuyển hoá cho nhau,thay đổi vị trí của nhau vàđiều đó diễn ra có thể là sự thay đổi phạm vi baoquát sự vật, hiện tượng hoặc có thể do kết quả vận động khách quan của sựvật hiện tượng đó. 4 Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ của các sự vật, hiện tượngchúng ta rút ra quan điểm toàn diện trong việc nhận thức, xem xét các sự vậthiện tượng cũng như trong hoạt động thực tiễn. Về mặt nhận thức, khi nghiên cứu sự vật, hiện tượng phải đặt nó trongmối liên hệ tác động qua lại với những sự vật, hiện tượng khác và cần phảiphát hiện ra những mối liên hệ giữa các bộ phận, yếu tố, các thuộc tính, cácgiai đoạn khác nhau của bản thân sự vật. Lênin đã khẳng định: “Muốn thực sựhiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt của mốiliên hệ và quan hệ của sự vật đó”. Để nhận thức đúng được sự vật, hiện tượngcần phải xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn, ứng với mỗi thờikỳ, giai đoạn, thế hệ thì con người bao giờ cũng chỉ phản ánh được số lượnghữu hạn các mối liên hệ. Vì vậy tri thức về các sự vật, hiện tượng chỉ là tươngđối, không đầy đủ và cần phải được hỏi chúng ta phải phát hiện ra không chỉlà mối liên hệ của nó mà còn phải biết xác định phân loại tính chất, vai trò, vịtrí của mỗi loại liên hệđối với sự phát triển của sự vật. Cần chống cả lạikhuynh hướng sai lầm phiến diện một chiều, cũng nhưđánh giá ngang bằng vịtrí của các loại quan hệ. Về mặt thực tiễn, quan điểm toàn diện đòi hỏi để cải tạo sự vật, hiệntượng cần làm thay đổi mối liên hệ bên trong của sự vật, hiện tượng cũng nhưmối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng đó với sự vật, hiện tượng khác. Muốn vậy,cần phải xác định, sử dụng đồng bộ các phương pháp, các biện pháp, phươngtiện để giải quyết sự vật. Mặt khác, quan điểm toàn diện đòi hỏi trong hoạtđộng thực tiễn cần phải kết hợp chính sách dàn đều và chính sách có trọngtâm, trọng điểm. Vừa chúý giải quyết về mặt tổng thể vừa biết lựa chọnnhững vấn đề trọng tâm để tập trung giải quyết dứt điểm tạo đà cho việc giảiquyết những vấn đề khác. Trong thời kỳđẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới của cách mạngViệt Nam hiện nay, nếu không phân tích toàn diện những mối liên hệ, tác 5động sẽ không đánh giáđúng tình hình nhiệm vụ cụ thể của đất nước trongtừng giai đoạn cụ thể và do vậy không đánh giá hết những khó khăn, nhữngthuận lợi trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng đất nước theo mục tiêu dângiàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nhận thức và quán triệt quan điểm toàn diện trong lãnh đạo sự nghiệpđổi mới của đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định cần phải đổi mớitoàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, chú trọng tăng trưởng kinh tếđiliền với thực hiện công bằng xã hội, giải quyết những vấn đề xã hội, đẩymạnh công nghiệp hoá – hiện đại hoá, đi tới bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc,vừa chủđộng hội nhập kinh tế quốc tế, vừa giương cao ngọn cờđộc lập tự chủ,an ninh quốc phòng… trong đó xác định phát triển kinh tế là trọng tâm. Trong khi khẳng định tính toàn diện, phạm vi bao quát tất cả các mặt,các lĩnh vực của quá trình đổi mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI củaĐảng cũng đồng thời coi đổi mới tư duy lý luận, tư duy chính trị về chủ nghĩaxã hội là khâu đột phá, trong khi nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới cả lĩnhvực kinh tế lẫn lĩnh vực chính trị, Đảng ta cũng xem đổi mới kinh tế là trọngtâm. Có thể khẳng định đây là sự vận động và quán triệt quan điểm toàn diệntrong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới vàđem lại những thắng lợi to lớn cho sựnghiệp đổi mới của cách mạng Việt Nam. Đất nước ta trong giai đoạnquáđộđi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa với nền sảnxuất nhỏ, điều kiện kinh tế còn rất nhiều khó khăn. Để lãnh đạo thành công sựnghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta đã kết hợp chặt chẽ giữa “chính sách dànđều” và”chính sách trọng điểm”, trong đó xác định phát triển kinh tế là trọngtâm. Thực tiễn 19 năm đổi mới ở nước ta mang lại nhiều bằng chứng xácnhận tính đúng đắn của những quan điểm trên. Khi đề cập tới những vấn đềnày, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Xéttrên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từđổi mới về tư duy chính trị 6trong việc hoạch định đường lối và chính sách đối nội, đối ngoại. Không cósựđổi mới đó thì không có mọi sựđổi mới khác. Song, Đảng ta đãđúng khi tậptrung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụđổi mới kinh tế, khắcphục khủng hoảng kinh tế – xã hội, tạo điều kiện cần thiết về vật chất và tinhthần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhândân, tạo thuận lợi đểđổi mới các mặt khác nhau của đời sống xã hội”. Chúng ta có thể thấy sựổn định, đứng vững và từng bước phát triển củađất nước trước những biến cố của thế giới đặc biệt là sự sụp đổ của Liên Xôvà các nước Đông Âu để thể hiện rõ sựđúng đắn của Đảng và Nhà nước tatrong lãnh dạo sự nghiệp đổi mới. Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nướcĐông Âu bị sụp đổđó là sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung,quan liêu, bao cấp, chứ không phải là chủ nghĩa xã hội với tư cách là một xãhội cao hơn chủ nghĩa tư bản. Nước ta đã có một thời kỳ chìm sâu trong cơchế tập trung, quan liêu, bao cấp và một loạt những điều chỉnh trong thờikỳđổi mới của Đảng và Nhà nước đãđưa đất nước dần thoát khỏi tình trạngnghèo đói, đời sống của người dân được nâng cao. Quan điểm toàn diện còn được Đảng ta nhận thức và quán triệt ngaytrong chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của Nhànước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là việc Đảng và Nhà nước vẫnthừa nhận vai trò tích cực của các thành phần kinh tế khác cũng như thừanhận sự tồn tại của hình thức sở hữu tư nhân. Tuy nhiên, trong đóĐảng ta vẫnđặc biệt nhấn mạnh và coi trọng hình thức sở hữu công cộng với vai tròchủđạo là thành phần kinh tế quốc doanh trong cơ chế thị trường hiện nay,đặc biệt là trong điều kiện nước ta đã trở thành thành viên chính thức củaWTO, đây là một thách thức rất lớn đối với một nước có thể nói là chậm pháttriển, lạc hậu như Việt Nam chúng ta. Và như thế, việc nhận thức và quán triệttốt nguyên tắc toàn diện của Đảng cóý nghĩa rất lớn đối với sự nghiệp đổi mớicủa nước ta trong thời gian tới. Việt Nam sẽ là nơi thu hút rất lớn vốn đầu tư 7của nước ngoài cũng như chúng ta sẽ trở thành đối tác của rất nhiều quốc giakể từ khi gia nhập WTO, điều đó có nghĩa việc phát triển nền kinh tế nhiềuthành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,Dảng và Nhà nước phải có chính sách, đường lối phù hợp để thành phần kinhtế quốc doanh vẫn giữđược vai trò chủđạo, tạo đà cho sự phát triển của đấtnước, đồng thời, bên cạnh đó với việc đầu tư của các tập đoàn tư bản nướcngoài vào Việt Nam thì việc đưa ra những chính sách điều chỉnh nhằm ổnđịnh, phát triển kinh tếđất nước là nhiệm vụ quan trọng đặt ra trước mắtchúng ta. Việc kết hợp chặt chẽ “chính sách dàn đều” và “chính sách trọngđiểm” cóý nghĩa rất quan trọng trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng tathời gian tới. Từ những điểm trình bày trên đây có thể rút ra kết luận rằng, quá trìnhhình thành quan điểm toàn diện đúng đắn với tư cách là nguyên tắc phươngpháp luận để nhận thức sự vật và sự vận dụng, quán triệt nguyên tắc trên củaĐảng trong sự nghiệp đổi mới đất nước đãđem lại rất nhiều thành công, đưađất nước phát triển đi lên với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội côngbằng, dân chủ, văn minh”. 8

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Tiểu luận