Tiểu Luận Cái Đẹp Trong Nghệ Thuật, Tailieuxanh

Tiểu luận: Cái đẹp trong nghệ thuật sân khấu chèo truyền thống và hướng đi để giữ gìn, bảo tồn và phát triển nghệ thuật chèo

Đang xem: Tiểu luận cái đẹp trong nghệ thuật

*

hướng dẫnVui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thái Bình là vùng đất nông thôn dân dã, tạo hóa đã ban cho nơinày đặc trưng riêng biệt và con người nơi đây cũng đã tạo ra nhiều nétvăn hóa nghệ thuật mang đậm nét của quê hương Thái Bình. Trong đócó loại hình sân khấu chèo. Một loại hình có từ xa xưa trong nền vănhóa Việt Nam mang nét tiêu biểu trong văn hóa ứng xử của dân tộc ViệtNam và môi trường xã hội.

Xem thêm: Khóa Học Của Trần Thị Ái Liên Xúc Phạm Bác Hồ Là Âm Mưu Chống Phá Của Cia?

Nội dung Text: Tiểu luận: Cái đẹp trong nghệ thuật sân khấu chèo truyền thống và hướng đi để giữ gìn, bảo tồn và phát triển nghệ thuật chèo

Xem thêm: Những Mẫu Nhà Diện Tích Nhỏ Mới Nhất, 3 Cách Để Thiết Kế Nhà Đẹp Chỉ Với Diện Tích Nhỏ

Tiểu luận: Đại Cương Mỹ Học Tiểu LuậnCái đẹp trong nghệ thuật sân khấu chèo truyền thống và hướng đi để giữ gìn, bảo tồnvà phát triển nghệ thuật chèo -1-Tiểu luận: Đại Cương Mỹ Học A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Thái Bình là vùng đất nông thôn dân dã, tạo hóa đã ban cho nơi này đặc trƣng riêng biệt và con ngƣời nơi đây cũng đã tạo ra nhiều nét văn hóa nghệ thuật mang đậm nét của quê hƣơng Thái Bình. Trong đó có loại hình sân khấu chèo. Một loại hình có từ xa xƣa trong nền văn hóa Việt Nam mang nét tiêu biểu trong văn hóa ứng xử của dân tộc Việt Nam và môi trƣờng xã hội. Đó la tinh hoa văn hóa dân tộc. Nghệ thuật sân khấu chèo Việt Nam ngày nay đã đƣợc phát triển trong cả nƣớc. Tìm hiểu về vẻ đẹp trong nghệ thuật sân khấu chèo luôn luôn là một đề tài lớn. Cái đẹp trong nghệ thuật sân khấu chèo mang nhiều sắc thái phong phú và đa dạng, nó luôn là nguồn cảm hứng cho các nhà nghiên cứu. Chính vì những điều trên đã thôi thúc em đi phân tích một số nét đẹp tiêu biểu của nghệ thuật sân khấu chèo. Bằng việc nghiên cứu đề tài tiểu luận “ Từ những đặc điểm phạm trù cái đẹp, thử phân tích về một cái đẹp trong đời sống tự nhiên ở quê hƣơng em”. 2. Lịch sử vấn đề Nói về vấn đề nét đẹp trong nghệ thuật sân khấu chèo thì đã có rất nhiều nhà nghiên cứu vấn đề này nhƣ: Sân khấu truyền thống bản sắc dân tộc và sự phát triển – TS Đào Mạnh Hùng (chủ biên) – Nxb sân khấu – 2003 Những làn điệu chèo cổ và hát dân ca đồng bằng Bắc bộ (tập 1) – Nhiều tác giả – Nhà Văn hoá trung tâm tỉnh Thái Bình – 2003. 3. Yêu cầu đạt đƣợc Tìm hiểu cái đẹp trong nghệ thuật sân khấu chèo truyền thống. Tìm ra hƣớng đi để gìn giữ, bảo tồn và phát triển nghệ thuật sânkhấu chèo truyền thống. 4. Cấu trúc bài tiểu luận. A. Phần mở đầu B. Phần nội dung Chƣơng I: Cái đẹp trong nghệ thuật sân khấu chèo truyền thống. Chƣơng II: Tìm hƣớng đi để giữ gìn, bảo tồn và phát triển nghệ thuật sân khấu truyền thống. C. Kết luận. -2-Tiểu luận: Đại Cương Mỹ Học B. PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG ICÁI ĐẸP TRONG NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU CHÈO TRUYỀN THỐNGI. Vài nét về sự hình thành nghệ thuật sân khấu chèo Nhiều nhà nghiên cứu thời kỳ sơ khai của sân khấu dân tộc là thời đạiNhà Lý (triều vua Lý Thái Tổ. Bắt đầu từ những trò diễn xƣớng dân gian và cáchình thành ca múa. Vua Lý Thái Tổ lấy ngày vua sinh làm tiết Thiện Thánh, cholàm núi bằng tre, trên núi cắm cờ xí cho ngƣời con hát ở trong núi đó đánh sênh,thổi sáo, hát múa cho vui.Phong trào hát múa đƣợc coi trọng, phong trào sinhhoạt nghệ thuật phát triển để thoả mãn nhu cầu của vua chúa hoàng tộc và quanlại. Nhiều nghệ nhân bậc thầy nổi tiếng: Phạm Thị Chân, Đặng Hồng Lân, ĐàoVăn Sơ, Tôn Sƣ TừĐạo Hạnh, Chính Vĩnh Căn v.v… là những vị tổ của sânkhấu truyền thống đã xuất hiện trong thời nhà Lý. Sân khấu Chèo đƣợc hìnhthành và phát triển trên châu thổ sông Hồng và sông Thái Bình vùng đồng bằngvà trung du Bắc Bộ. Từ những bài hát của đạo Phật, đạo Hiếu, từ sự tín ngƣỡng,từ âm nhạc dân gian, từ trò hát nhại, từ tiếng trống trò trong quân ngũ. Theo TSTrần Đình Ngôn thì: “nghệ thuật chèo bắt nguồn từ trò nhại và múa hát dân gianqua hình thức tế lễ, chèo thuyền bát nhã của đạo Phật rồi trở thành sân khấu dângian”.Chèo là nghệ thuật của ngƣời nông dân phía Bắc Việt Nam, đƣợc họ yêuquý – gìn giữ và phát triển qua bao thế hệ. Chèo đáp ứng nhu cầu thâm mỹ củangƣời dân lao động, nó mang phong vị mà ngƣời nông dân Việt Nam ƣa thích.Sở dĩ chèo vẫn trƣờng tồn và phát triển nhƣ ngày nay vì nó tôn thờ cái thiện, cáiđẹp, cái cao thƣợng, nó thấm đẫm chủ nghĩa nhân văn dân tộc, đồng thời nómang đậm đà tâm hồn của ngƣời nông dân Việt Nam. Những vẻ đẹp của thuầnphong mỹ tục dân tộc, những mẫu mực về đạo đức truyền thống đã thực sự tạonên hình hài của văn hoá ứng xử “đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam”.II. Mấy nét đẹp trong nghệ thuật sân khấu chèo truyền thống1. Cái đẹp trong phong vị chèo Phong vị chèo là thuộc tính phẩm chất, một nét đẹp riêng của chèo truyềnthống. Đó chính là những tính chất, đặc biệt là sự kết hợp tài tình giữa các tínhchất để ngƣời xem cảm thụ đƣợc để rồi hứng thú nó, say mê nó. Bốn thuộc tínhphẩm chất riêng của chèo là:1.1. Sự kết hợp giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn Đó là sự kết hợp những sự kiện, những tình tiết gần gũi với đời sống hiệnthực và những sự kiện, những tình tiết đã đƣợc huyền thoại hoá, lý tƣởng hoá,giả định hoá. Nó vừa khắc hoạ đƣợc bản chất, cái thần của đời sống con ngƣời, -3-Tiểu luận: Đại Cương Mỹ Họcvừa thể hiện đƣợc ƣớc mơ – khao khát vƣơn tới cái đẹp, cái hoàn mỹ của ngƣờinông dân lao động. Họ là những con ngƣời bình thƣờng nhƣng đã vƣơn tớinhững hành vi ứng xử siêu phàm: nhƣ Dƣơng Lễ – Châu Long (trong vở LƣuBình-Dƣơng Lễ), Thị Phƣơng (trong vở Trƣơng Viên), Thị Kính (trong vởQuanÂm Thị Kính) …1.2 Sự kết hợp giữa dân gian và bác học Sự kết hợp này làm cho chèo vừa giản dị, mộc mạc trong sáng vừa chứađựng đƣợc những ý nghĩa tinh tế, hàm xúc, mang tính chất triết lý. Trèo là sânkhấu dân gian bắt nguồn từ nghệ thuật dân gian và văn hoá dân gian . Nhƣngtrong quá trình phát triển với sự tham gia ngày càng nhiều của các tri thức phongkiến vào khâu sáng tác tích trò, đã đem vào chèo luồng văn chƣơng bác học. Sựkết hợp hài hoà giữa dân gian và bác học không dừng lại ở văn chƣơng chèo (đốithoại và lời ca), mà còn thể hiện ở nghệ thuật biểu diễn. Bên cạnh lối diễn phóngkhoáng đầy chất hội hè dân dã với sự giao hào một cách hồn nhiên giữa ngƣờidiễn với ngƣời xem, là lối diễn trang nghiêm đĩnh đạc mực thƣớc nhƣ nhữngquy phạm cổ điển. Trong năm loại mô hình nhân vật theo cách phân định củagiáo sƣ Trần Bảng thì Hề, Lão, Mụ, thƣờng diễn theo phong cách dân gian; cònSinh, Đào thƣờng diễn theo phong cách gần nhƣ cổ điển, gần với hình tƣợng vănhọc của văn chƣơng cổ điển.1.3. Sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại Sự kết hợp này vừa tiếp tục khẳng định những chuẩn mực đạo đức truyềnthống vừa đề cập đến những chuyện đời thƣờng của ngƣời đƣơng thời. Kểchuyện xƣa mà cứ nhƣ đang nói chuyện nay. Thuộc tính này khá độc đáo vì thếmà chèo có sức sống mãnh liệt và lâu bền. Trong quá trình phát triển của chèo,các vở diễn ra đời sau bao giờ cũng kế thừa những thành tựu nghệ thuật của cácvở trƣớc nhất là về ca hát và trò diễn, đặc biệt là về những miếng trò ngoài tích.Những vở chèo sau thƣờng xuất hiện thêm những lớp trò mới và theo nó là tínhcách nhân vật kiểu mới (dù vẫn là 5 mô hình: Sinh, Đào, Hề, Lão, Mụ) vớinhững số phận tâm trạng mới không giống các nhân vật đã gặp trong các vở cũ.Nhân vật với tính cách, số phận và trạng thái tâm lý mới đã kéo theo những tíchtrò mới và làn hát mới đƣợc sáng tạo. Đây là sự kết hợp ngẫu nhiên của truyềnthống và hiện đại.2. Nét đẹp trong cách sử dụng văn học chèo2.1. Sử dụng văn học dân gian và văn học bác học Bắt nguồn từ văn học dân gian và chịu ảnh hƣởng sâu sắc của văn học báchọc. Văn học chèo chủ yếu sáng tác theo phƣơng pháp nghệ thuật của ca dao,tục ngữ. Bên cạnh đó cũng khá nhiều câu phô diễn theo lối văn chƣơng bác học.Bình dị mộc mạc trong sáng và duyên dáng nhƣ ca dao: “Thầy nhƣ táo rụng sân đình. Em nhƣ gái dở đi tìm của chua” Hay: “Ta đi chợ Dốc – ngồi gốc cây đa, thấy cô yếm thắm mặc áo nâu già, -4-Tiểu luận: Đại Cương Mỹ Họcthắt dây lƣng xanh”… Lại có những lời hát rất hàm xúc và khái quát cao: “Lác đã mƣa ngâu – xình xịch mƣa ngâu. Lá ngâu rụng xuống – bông lau phất cờ Nƣớc xanh phẳng lặng nhƣ tờ Một đàn cá lớn nhấp nhô đầu gềnh Kìa ai than khóc đầu gềnh”. Một bức tranh phong cảnh mùa thu đƣợc vẽ lên, nhƣng thấy thấp thoángtrong đó là một bức tranh xã hội hiện ra. Bọn phong kiến của thời đại này thaybọn phong kiến của triều đại khác (lá ngâu – phất cờ) để cuối cùng ngƣời dân lànạn nhân đau thƣơng nhất (Kìa ai than khóc đầu gềnh. Và những câu thơ ảnh hƣởng đến văn chƣơng bác học: “Mộng tàn bán chẩm mê hồ điệp Xuân tận tàn canh, oán tử quy”. Đây là lời than thở của Lƣu Bình khi ăn cùng mâm, ở cùng nhà với nàngChâu Long nhƣng vẫn phải giữ khoảng cách chƣa đƣợc “gặp nhau”.2.2. Sử dụng chất liệu thƣ pháp Ngôn ngữ đối thoại của chèo thể hiện đậm đà nhất trong ca từ, với thể thơdân tộc và độc đáo nhất là thể thơ lục bát. Thơ lục bát sử dụng trong chèo khicác nhân vật ngâm – vỉa – hát – nói đều có cả. “Đêm rằm gió mát trăng thanh Bầu tiên chúc rƣợu câu thần ngân nga Vui chơi chén rƣợu cuộc cờ Sớm xem hoa nở tối chờ trăng lên”… Với thể thơ lục bát trên có thể sử dụng hát với rất nhiều làn điệu: xẩmxoan, lới lơ, sa lệch chênh, sắp…Song thất lục bát cũng là một thể thơ dân tộcđƣợc sử dụng rất nhiều trongsân khấu chèo với các làn điệu: quân thừa, hoàngchiếu, chinh phụ …Từ những câu nói lên bổng xuống trầm với các thành huyền,sắc, hỏi, ngã, nặng. Đối thoại trong sân khấu chèo đã tiến tới chỗ cách điệu vàthể hiện bằng những câu thơ mang tính biến ngẫu, đổi ý, đổi thanh, ngắn, dàikhác nhau rất linh hoạt bao nhiều thể thơ khác nhau: thể 3 chữ, 4 chữ, 5 chữ, 6chữ v.v…; đảo lên đảo xuống rất nhịp nhàng. Nói mà nhƣ hát, nhƣ đọc thơ, ngâmthơ.3. Nét đẹp của nội dung và hình thức Trong bất kỳ lĩnh vực nào thì con ngƣời cũng đều hƣớng tới cái đẹp, khátvọng vƣơn tới cái đẹp, cái hoàn hảo, hƣớng tới chân-thiện-mỹ. Trong đời sốngcon ngƣời, cái đẹp làm chuẩn mực cho mọi giá trị. Trong nghệ thuật nói chungcái đẹp là linh hồn, là mẫu số chung cho mọi tác phẩm. Trên sân khấu chèo, cáiđẹp cũng mang một tính chất chung nhƣ vậy. Đẹp từ hình thức đến nội dung, từngôn ngữ lời thoại , từ cách thức dùng từ ngữ trong văn chƣơng, đến cách biểuđạt trên sân khấu. Từ cái đẹp trong phục trang, đạo cụ cảnh trí, âm nhạc, lối hát, -5-Tiểu luận: Đại Cương Mỹ Họccách múa, cách diễn đẹp đến tâm hồn ngƣời nghệ sĩ. Cái đẹp trong sân khấu nóichung và ở nghệ thuật chèo nói riêng phải mang đầy đủ các hình thức của cáiđẹp trong tự nhiên, trong xã hội tổng hợp lại. Bởi vì cái đẹp trong nghệ thuậtnhƣ một số nhà nghiên cứu lý luận đã nói: “là cái đẹp tổng hoà trong cái đẹpthiên nhiên và cái đẹp trong xã hội”. “Cái đẹp trong nghệ thuật là cái đẹp mangtính điển hình đƣợc diễn tả bằng các hình thức nghệ thuật khác nhau. Từ nhữngcái đẹp trong cuộc sống, ngƣời nghệ sĩ đã chọn lọc chắt chiu, cô đọng rồi nhàonặn thành cái đẹp điển hình, độc đáo và sắc sảo. Sân khấu chèo với nét độc đáo từ cuộc sống của ngƣời dân lao động vàmong muốn vƣơn tới cái đẹp hoàn hảo mà hình thành mang đậm nét đẹp từ hìnhthức đến nội dung. Sân khấu chèo có nhiệm vụ làm thoả mãn nhu cầu thẩm mỹcủa con ngƣời. Chèo là một nghệ thuật mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc ViệtNam. Nó luôn phản ánh những khát vọng chân thực, những ƣớc ao, hạnh phúc,thuỷ chung. Bắt nguồn từ dân ca châu thổ Bắc Bộ, từ các lễ hội truyền thống củanhững ngƣời nông dân, để tồn tại đến ngày nay chèo đã tiếp thu: hò lao động,âm nhạc, ca hát, nghi lễ phong tục và phần nào âm nhạc tôn giáo. Từ hát ru con,hát giao duyên, hát kể chuyện trong diễn xƣớng dân gian. Đặc biệt chèo đã tiếpthu nhiều nhất loại âm nhạc kể chuyện tự sự: hát sẩm, hát ả đào và một số hìnhthức diễn xƣớng dân gian, phong tục tôn giáo nhƣ: hát chầu văn, hát trong nhàchùa hay trong tang lễ. Về thực chất thì những giai điệu của ả đào, hát sẩm, hát chầu văn cũngđều có xuất xứ từ dân ca mà có. Do đó chèo mang đậm chất dân ca, phần lớn cáclàn điệu chèo có nguồn gốc từ dân ca châu thổ Bắc bộ và chính nó là những lànđiệu dân ca đƣợc nâng cao và phát triển.Ví dụ: trong làn điệu dân ca đồng bằng Bắc bộ có làn điệu “ví đồngruộng” và làn điệu “vỉa cấm giá” của vở chèo Quan Âm Thị Kính có một mốiliên hệ về phong cách, về tính âm điệu. Hoặc nhƣ bài “Trống cơm” của dân caquan họ Bắc Ninh và làn diệu “Hề mồi đồn rằng” cũng vậy. Ở bài Trống cơm:“tình bằng có cái trống cơm, khen ai khéo vỗ, ấy bông nên bông. Một bầy tangtình con xít. Nó mới lội – lội sông, nó mấy đi tìm, em nhớ thƣơng ai. Đôi conmắt nó mấy lim dim”. Thì ở làn hề Mồi đồn rằng: có cô là tên con gái/có côlà/cô con gái trái/nhân duyên cô nhỡ chồng ấy mấy/chiếc trông cơm ai khéo vỗtình lên i vông/một đàn dàn/con xít/phú lý lội/lội/lội/lội sông ô mấy đi tìm…3.1. Về nội dung Cái đẹp về mặt nội dung trong tác phẩm sân khấu chèo truyền thống chota thấy đây là loại hình sân khấu khuyên giáo đạo đức. Nhƣ ai cũng biết, nộidung phần lớn các vở chèo cổ thƣờng đƣa ra các khuôn mẫu đời sống, trong đónhân vật thƣ sinh hoặc một viên khoa bảng giữ vai trò cầm cân nảy mực tronggia đình, lấy tam cƣơng ngũ thƣờng, tam tòng tứ đức làm gƣơng soi. Từ đóngƣời thân của họ (thƣờng là vợ, là con, là bạn) sẽ gặp những sự biến xảy ra vàhọ chính là ngƣời đứng mũi chịu sào, giải quyết sự biến đó. Vì đề cao số phận -6-Tiểu luận: Đại Cương Mỹ Họcnhân vật đạo đức mẫu mực, mà các sự biến đƣợc khai thác đủ để chứng minhcho chân lý: ngƣời tốt sẽ đạt đƣợc hạnh phúc, kẻ xấu sẽ bị trừng phạt, đoạ đầy,tấtcả an bài trong định mệnh cố hữu. Đặc điểm này đã tạo nên nét đẹp độc đáotrong nội dung tác phẩm chèo. Chính nó đã quyết định nên phƣơng pháp “ƣớc lệ- cách điệu” của sân khấu chèo truyền thống. Cái đẹp của nội dung chèo truyềnthống luôn hƣớng con ngƣời vƣơn tới chân – thiện – mỹ3.2 Về hình thức Về hình thức thì nói đến chèo là phải nói đến tính tự sự của nó. Có lẽngoài chèo ra thì không có một loại hình sân khấu nào có đặc điểm riêng độcđáo nhƣ vậy. Nhân vật của chèo (cổ) khi vào sân khấu bao giờ cũng xƣng danhtôi là ai, tôi sẽ làm gì rồi giao đãi tình huống cho thoả đáng rôi mới vào trò diễn.Một nét đẹp trong văn hoá ứng xử rất độc đáo và duyên dáng. Một màn chào hỏirất tinh tế với nét đẹp của phong tục Việt Nam.Qua những kịch bản chèo xƣa tathấy cách xắp xếp bố cục theo lối kể chuyện rất hay, có giáo đầu, giới thiệu tíchtruyện rồi câu chuyện đƣợc kể lại bằng sân khấu qua từng lớp diễn, màn diễn nốitiếp nhau không đứt quãng, rất dễ hiểu, gần gũi, gắn liền với quần chúng laođộng. Nó không hề lệ thuộc cứng nhắc vào không gian, thời gian, địa điểm. Kếtthúc của vở chèo bao giờ cũng có hậu, cái thiện chiến thắng cái ác, câu chuyệnchèo là những câu chuyện dân dã trong cuộc sống đời thƣờng. Nhân vật chèo cócá tính rõ nét ngay từ bƣớc đầu tiên ra sân khấu. Cách trang trí, phục trang, đạocụ đã gần nhƣ phác hoạ ra tính cách nhân vật một cách rõ nét. Tích trò thƣờng lànhững câu chuyện có sẵn trong các câu chuyện cổ, truyện nôm khuyết danh nhƣ“Quan Âm Thị Kính”, “Lƣu Bình – Dƣơng Lễ”, “Phạm Trân – Cúc Hoa” v.v…Nhƣng cũng có tích hƣ cấu dựa theo lịch sử qua giai thoại, huyền thoại, sự kiệnnhƣ “Trƣơng Viên”. Tƣ tƣởng chủ đề trong kịch bản chèo và vở diễn đôi khi tráingƣợc nhau. Kịch bản văn học là của Nho sinh mang nặng ý thức hệ phong kiến,khuân vào những lễ giáo của đạo Nho, đạo Phật, còn diễn viên với tài ứng diễncủa nghệ nhân – nhất là các vai hề – là những ngƣời nông dân lao động nên nhânsinh quan không đồng nhất, tạo nên nét riêng độc đáo cho từng tác phẩm. Thực tếnày đã chứa đựng cho sân khấu chèo cả tính trữ tình và trào lộng tạo thành mộtphong cách đẹp riêng biệt, hài hoà, không căng thẳng, có buồn, có vui đan xenđem đến cho quần chúng tiếng cƣời sảng khoái và những dòng nƣớc mắt tuôntrào. Kịch bản ít khi đƣợc bằng văn bản mà nó thƣờng đƣợc ghi nhớ trong trínhớ của các ông “trùm”, ông “thơ” và các nghệ nhân. Vì vậy cùng một tích trò,mỗi một nôi chèo: Đông – Nam – Đoài – Bắc (tứ chiếng) đều có những lớp, mànkhác nhau trong một cốt lõi trò giống nhau, tạo nên phong cách riêng của từngchiếng chèo.4. Nét đẹp trong làn điệu, múa, nhạc, trang trí của nghệ thuật sân khấuchèo truyền thống Nghệ thuật chèo bao gồm: hát, múa, nhạc, diễn, trang trí. Là những thànhphần quan trọng của môn kịch hát dân tộc nằm trong di sản văn hoá truyền -7-Tiểu luận: Đại Cương Mỹ Họcthống Việt Nam. Vì vậy xin đƣợc nêu lên 5 nét đẹp tiêu biểu trong nghệ thuậtsân khấu chèo truyền thống.4.1. Nét đẹp trong làn điệu chèo Trong các làn điệu chèo ta thấy bóng dáng của hầu hết các loại dân ca củaBắc bộ. Từ hát ghẹo của đất tổ Hùng Vƣơng, đến tiếng hò trên sông Hƣơng – núiNgự. Những điệu nông ca khi cào cỏ, bón phân, cấy trồng. Những điệu ngƣ cakhi chèo thuyền, buông câu, chài lƣới. Những điệu hát xẩm, hát văn, hát quanhọ, hát canh, kê, sai, luyện, ca trù… đã đƣợc nghệ nhân chèo nắn bẻ, sáng toạ vàphát triển thành các làn điệu chèo phù hợp với yêu cầu diễn biến, tình tiết củatừng nhân vật. Làn điệu chèo thƣờng đƣợc sử dụng cho nhiều nhân vật, nhiều vởdiễn, chỉ có lời hát là thay đổi sao cho phù hợp với từng nhân vật, từng tíchtruyện. Mỗi tích trò, mỗi nhân vật đều có sự lựa chọn làn điệu khác nhau cho phùhợp tạo thành một phong cách cho từng nhân vật, từng vở diễn. Ngƣời yêu mếnchèo cổ thƣờng nói: muốn nghe hát thì xem “Quan Âm Thị Kính”, “Kim Nham”,“Trƣơng Viên”; nghe nói sử thì xem “Lƣu Bình – Dƣơng Lễ”; nghe nói hề thìxem “Từ Thức” v.v… Điều đó cho thấy mỗi vở chèo xƣa đều có những chọn lọctinh tế, làn điệu chính cho tác phẩm của mình, mang một phong cách, một nétđẹp riêng, độc đáo cho tác phẩm. Bài hát mở đầu đêm diễn nhằm ổn định trật tựvà cũng là để cho diễn viên sửa giọng chuẩn bị cho vai diễn thƣờng là hát đồngca. Một xách xử lý tinh vi trong nghệ thuật chèo giúp cho diễn viên khai giọng vàkhán giả ổn định trật tự đón xem vở diễn. Chẳng cần phải kêu gào ổn định trật tự,chẳng cần phải có một đội quân dẹp đám đông, cứ bài hát đồng ca mở đầu vanglên là mọi thứ tự nhiên đi vào nề nếp trật tự. Thật hiếm có một phƣơng pháp nàohay hơn phƣơng pháp này của sân khấu chèo.Làn điệu chèo là một hình thức phổthơ, chủ yếu là thơ lục bát, một thể thơ độc đáo của dân tộc Việt Nam. Trên cơ sởthanh điệu của tiếng Việt, làn điệu chèo phổ thơ cho nên các âm trong điệu hátthƣờng ứng với từng lời trong thơ cùng với các dấu huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã vàthanh không. Vì vậy giai điệu do thanh điệu của tiếng Việt tạo ra đƣợc tiết tấuhoá trở thành khúc điệu chèo. Hát chèo với những làn điệu có nguyên tắc cấutrúc riêng nên nó không giống với bất kỳ một loại nhạc nào. Sử dụng chất liệudân gian nhƣng làn điệu chèo đã thoát khỏi vỏ bọc dân ca để tạo ra một loại ngônngữ âm nhạc mang tính bác học. Biểu đạt đƣợc mọi tình cảm trạng thái tâm lýcon ngƣời. Đó chính là nét đẹp riêng của làn điệu chèo, một hiện tƣợng độc đáocủa nền âm nhạc Việt Nam. Mỗi làn điệu chèo đều gắn liền với nội dung vàtínhcách của tâm trạng nhân vật, đôi khi nó đƣợc khắc hoạ ngay trong câu hát, ở nhịpđầu tiên của các làn điệu.Ví dụ: làn điệu “con gà rừng” nhịp đầu hát con gà… a á rừng (tình tinhtinh chát), hay làn điệu “dậm chân” hát từ trở đầu. Tôi dậm í ì i chân vái i ì đất/ íi tôi kêu/í i trời …Một nét độc đáo trong các làn điệu hát chảo là các làn điệu rấtphong phú, hàm chứa nhiều cung bậc, tình cảm đời sống dân gian và thấm đẫmchất liệu cổ truyền vừa đa dạng, vừa độc đáo. Chính vì thế – khác các loại hình -8-Tiểu luận: Đại Cương Mỹ Họckhác, hát chèo thƣờng chia làm 4 loại để sử dụng cho phù hợp với đặc điểmriêng.4.2. Nét đẹp trong múa chèo Bắt nguồn từ múa dân gian đồng bằng Bắc bộ, từ múa bông, múa xuânphả, múa trong diễn xƣớng nhật đồng và phần nào mang dấu ấn của múa chăm.Nhƣng phần lớn những lớp múa hay nhất, đẹp và độc đáo nhất đều bắt nguồn từđời sống sinh hoạt hay lao động của ngƣời dân Việt Nam, mang đậm dấu ấn củavùng đồng bằng lúa nƣớc ở vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Nét đẹp củasắc thái dân tộc Việt đƣợc thể hiện khá rõ nét trong từng động tác múa.Lớp múa của “Thị Mầu lên chùa” đã trở thành ngôn ngữ chính để diễn tảcái khát khao, cái lẳng lơ của nhân vật Thị Mầu. Còn trong trích đoạn “Xuý Vângiả dại”, lớp “giả điên” là một tổ hợp múa liên tục kế tiếp nhau bằng các độngtác xe chỉ, luồn kim, khâu vá rồi lội sông, té bèo v.v…. Với những đƣờng nétkhi khoan thai, khi gấp gáp đột biến, diễn tả cái điên dại giả vờ của Xuý Vân.Nét đẹp tinh tế ở đây chính là sự gần gũi của múa Chèo với đời sông quầnchúng. Từ những công việc hàng ngày rất bình thƣờng trong cuộc sống đã đƣợcchọn lọc và sáng tạo tinh tế để trở thành cái đẹp lung linh của nghệ thuật.4.3. Nét đẹp của âm nhạc chèo Nét đẹp của âm nhạc chèo truyền thống thể hiện ở dàn nhạc công với cácnhạc cụ gồm trống, mõ, thanh la, nhị, hồ, nguyệt, sáo. Tuy không có vai trò quantrọng song nó làm cho không khí đêm diễn thêm rộn rã, mang một sắc thái riêngbiệt. Đặc biệt là “tiếng trống chèo” một nhạc cụ dân tộc độc đáo nhất. Đó là bảnhoà tấu “thi trống” trong chèo, tất cả các nhạc cụ trong bộ gõ cũng đƣợc diễntấu, tạo nên một không khí tƣng bừng sôi nổi, có sức cuốn hút ngƣời đến xemhội chèo: “Ăn no rồi lại nằm khoèo Nghe tiếng trống chèo bế bụng đi xem” Độc đáo hơn là cả chiếc trống con, với âm thanh và âm sắc không thể lẫnvào đâu đƣợc. Với tài điêu luyện của nhạc công, những âm “rục” chen lẫn âm“tình tính chát” kết hợp hài hoà tạo nên những khổ trống lƣu không xuyên tâmđặc sắc trong chèo. Cây nhị trong chèo ngọt sắc, réo rắt, trong vắt diễn tả đƣợcnỗi buồn đếnxót xa. Trong các làn điệu sử dầu, làn thảm, du xuân v.v… Xong nó lại tả đƣợcniềm vui trong sáng. Điệu đƣờng trƣờng tiếng đàn, sắp cổ phong v.v… lại thathiết trữ tình. Trong các làn điệu luyện năm cung, nhịp đuổi, đƣờng trƣờng bắnchim thƣớc…, cây nhị ở âm khu cao tạo nên vẻ réo rắt, cuốn hút với tính chấtthiết tha, da diết đầy ấn tƣợng. Chiếc trống cơm bập bùng không dùng dùi đánhmà gõ nhịp nhàng bằng hai tay theo nhịp điệu làn hát hoà vào giàn nhạc đệm chongƣời hát làm duyên. Thêm vào cho làn điệu chèo nhƣ là một thứ gia vị độc đáocho một món ăn đặcsản -9-Tiểu luận: Đại Cương Mỹ Học4.4. Nét đẹp trong trang trí và đạo cụ Nghệ thuật tạo hình tham gia vào sân khấu chèo dân gian xƣa ít ỏi vàmuộn mằn hơn so với văn chƣơng và âm nhạc. Trong điều kiện nghèo nàn vềvật chất của các gánh chèo xƣa, cùng với phƣơng tiện vận chuyển chỉ là đôichân đi bộ, lại thƣờng biểu diễn trên sân đình, sân nhà quan, nhà giàu nên cácgánh chèo xƣa đều không có cảnh trí cho các vở diễn. Cả trang phục và đạo cụđều rất giản dị mộc mạc.*Sân khấu chèo xƣa chỉ vẻn vẹn có một chiếu chiều chèo trải giữa sânđình, mọi ngƣời ngồi xem sát bốn xung quanh chiếu. Trên chiếc chiếu là mộtchiếc hòm đồ, khi vận chuyển thì đựng trang phục, khi diễn hòm trở thành vậttƣợng trƣng cho cảnh trí, khi là núi non, lúc là long sàng hay thềm đá v.v… thayđổi theo diễn xuất ƣớc lệ của các nhân vật trong từng hoàn cảnh quy định.Ngăn cách giữa chiếu chèo với buồng trò (nơi diễn viên hoá trang, thaytrang phục để chờ ra diễn) là một cánh màn dải thẫm màu hai bên mép màn trởthành cửa sinh, nơi nhân vật chèo ra vai, vào trò, và cửa tử nôi nhân vật thoátvai, hạ trò. Xét về mặt nghệ thuật, sự giản dị mộc mạc chƣa hẳn đã là độc đáo,nó khó thoả mãn nhu cầu thị giác của ngƣời xem, có khiếu thẩm mỹ khác vớingƣời dân lao động, nhƣng nó vẫn là một nét đẹp riêng của nghệ thuật sân khấuchèo truyền thống.*Trang phục trong chèo: Trang phục trong chèo truyền thống không phứctạp trong cách vì nó đƣợc khai thác dựa trên quần áo đời thƣờng. Đặc điểm làmộc mạc, giản dị với quần chúng, thể hiện đƣợc quan điểm thẩm mỹ của ngƣờidiễn chèo và ngƣời xem chèo truyền thống. Họ coi trọng ý nghĩa cao đẹp củatích trò hơn sự lộng lẫy của trang trí, phục trang vở diễn. Họ coi trọng tài năngnghệ thuật của ngƣời nghệ sĩ hơn là những thứ phù trợ hoa hoè hoa sói. Đó cũngchính là nét đẹp riêng của nghệ thuật chèo truyền thống, điều đó đã mang lại chocon ngƣời (cả diễn viên và khán giả) một cảm giác gần gũi, thân quen và thoảimái, ngƣời diễn và ngƣời xem hoà quyện vào nhau nhƣ không hề có khoảngcách. Trang phục trong chèo thƣờng là áo tứ thân, mớ ba, mớ bẩy, hay các bộ áocánh, quần nâu sòng, quần lã toạ. Đều là những trang phục đời thƣờng của ngƣờidân lao động. Nếu các nhân vật quan lại, quý tộc thì trang phục cũng giản dị,cách tân từ các bộ áo dài, đúng nhƣ trang phục vua chúa ngày xƣa.* Đạo cụ trong chèo: là một bộ phận không thể bỏ qua, vì nó đã góp phầnlàm nên đặc trƣng riêng cho nghệ thuật diễn chèo. Trong nghệ thuật sân khấuchèo truyền thống, cách xử lý, diễn xuất của các diễn viên đều bằng các động táchƣ, nên các đạo cụ xuất hiện trên sân khấu rất ít. Nổi lên là một số đạo cụ màtrong nghề gọi là đạo cụ tuỳ thân. Tuy ít ỏi nhƣng việc xử lý các đạo cụ này lạimang một phong cách đặc biệt, lại có những giá trị nghệ thuật độc đáo và thú vị.Đạo cụ tuỳ thân trong chèo là cái quạt của các vai Sinh, Đào; cái gậy của các vaiHề, Lão, Mụ; cái mồi lửa của lính hầu cung đình; cái bộ trống của phù thuỷ, cáimái chèo của ngƣ ông v.v… trong số các đạo cụ tuỳ thân ấy, ta thấy nổi bật hơn – 10 -Tiểu luận: Đại Cương Mỹ Họccả là cái quạt, cái gậy và cái mái chèo. Cái tính chung của đạo cụ tuỳ thân là ởchỗ tuy nó là một vật cụ thể nhƣng lại trở thành một vật trung gian để qua diễnxuất ƣớc lệ của nhân vật mà nó có thể trở thành vật thể, đồ dùng khác với sựtƣởng tƣợng, bổ xung của khán giả chèo.- Cái quạt trong chèo: biểu hiện nhiều hình thức khác nhau. Cái quạt trongtay ngƣời diễn viên khi thì là phong thƣ, lúc lại là quyển sach, có khi là cây bút,có lúc lại là mái chèo. Cái quạt trong chèo đƣợc xử lý vô cùng linh hoạt, khônggò ép vào bất kỳ một hình thức nào cụ thể thể hiện tính linh hoạt trong nghệthuật sấn khấu chèo.- Cái gậy trong chèo: là một đạo cụ tuỳ thân gắn bó với các vai Hề, Lão,Mụ. Cái gậy gỗ trong tay anh Hề, cái gậy tre trong tay lão say, lão mốc, trongtay bà ăn xin, trong tay thày bói. Cái gậy trúc đầu rồng trong tay thần núi, tiênông… mỗi ngƣời một vẻ song cái gậy cũng góp phần diễn tả trạng thái tính cáchnhƣ một bộ phận không thể thiếu trong hình tƣợng nhân vật. Cái gậy trong tayanh Hề khi theo hầu cậu, khi thì dùng để quẩy túi hành trang, hoặc cắp nách,cầm tay, khi lại trở thành vũ khí tự vệ, lúc lại dùng để múa gậy mua vui đuanghịch.Bằng tài năng sáng tạo của mình các nghệ sĩ chèo xƣa đã làm cho cái gậycó thần. Nó là vật vô tri mà chứa đầy sức sông mang đƣợc cả tiếng cƣời sảngkhoái và niềm vui nỗi buồn. CHƢƠNG II TÌM HƢỚNG ĐI ĐỂ GÌN GIỮ, BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU CHÈO TRUYỀN THỐNG1. Bảo lƣu và phát triển nghệ thuật sân khấu chèo chuyên nghiệp Hiện nay, tại nhiều tỉnh khu vực phía Bắc, có rất nhiều đoàn chèo chuyênnghiệp là một nhiệm vụ quan trọng.Vậy cần phải thực hiện những phƣơng hƣớng gì để phát triển nghệ thuậtsân khấu chèo chuyên nghiệp?*Trƣớc hết cần sắp xếp lại tổ chức, cơ cấu một đoàn chèo hoặc nhà hátchèo một cách ổn định. Thực hiện đƣợc yêu cầu những ngƣời làm nghệ thuậtphải biết nghệ thuật, có đạo đức nghệ thuật. Các đoàn chèo nghệ thuật cần tách 2mảng hoạt động: phát huy và bảo tồn: Tuổi trẻ lƣu diễn và học tập, tuổi cao giảngdạy trao truyền và khai thác giữ gìn.*Từng bƣớc đổi mới chất lƣợng đội ngũ, diễn viên, nhạc công kế cận củacác đoàn nghệ thuật bằng cách đào tạo chính quy và tại chức.Liên tục nâng caotri thức hiểu biết chính trị – văn hoá – xã hội cho nghệ sỹ diễn viên. Đào tạo vàxây dựng dần thành bộ tam tứ: tác giả – đạo diễn âm nhạc và diễn viên để chủđộng phát huy tiềm năng, trí tuệ nghệ thuật quê hƣơng.2. Bảo lƣu và phát triển nghệ thuật chèo cơ sở Hiện nay, tại nhiều tỉnh phía Bắc, còn rất nhiều làng chèo truyền thốngđang hoạt động, vì thế việc bảo lƣu và phát triển nghệ thuật chèo ở cơ sở cũng là – 11 -Tiểu luận: Đại Cương Mỹ Họcnhiệm vụ quan trọng.*Các trƣờng Văn hoá nghệ thuật của tỉnh, cùng với các đoàn chèo phảiphối hợp với trung tâm văn hoá các huyện, thị mở các lớp tập huấn nghệ thuậtchèo theo hình thức xã hội hoá.*Thƣờng xuyên tổ chức giao lƣu ca hát giữa các làng chèo và các cuộc thicủa các ban ngành của các tỉnh nhƣ, bí thƣ, chủ tịch, mặt trân, thanh niên, phụnữ, thiếu niên… ở xã, phƣờng, thị trấn.*Đối với các nghệ nhân viết chèo, đàn chèo, hát chèo giỏi tại các làngchèo của các tình thế Đảng và Nhà nƣớc ta cần có chế độ chính sách xứng đángđộng viên, khuyến khích họ tiếp tục cống hiến tài năng của mình cho quê hƣơng,truyền nghề lại cho con cháu. – 12 -Tiểu luận: Đại Cương Mỹ Học C.KẾT LUẬNNghệ thuật sân khấu chèo truyền thống là di sản văn hoá quý báu của ôngcha ta. Nghệ thuật sân khấu chèo truyền thống mang trong mình cái đẹp của nềnvăn hoá Việt Nam “tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.Ngày nay trong xu hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nƣớc, thịhiếu thƣởng thức nghệ thuật của ngƣời Việt Nam đặc biệt là giới trẻ đã có nhiềuthay đổi. Giới trẻ Việt Nam ngày nay chủ yếu thiên về các loại hình nhạc trẻ:Pop, Hiphop, Rock; họ ít còn hƣớng tới các loại hình nghệ thuật sân khấu truyềnthống, đặc biệt là chèo.Chính vì vậy, ta phải tiếp tục bảo tồn, gìn giữ và phát triển nghệ thuật sânkhấu chèo truyền thống, làm sao để sân khấu chèo đối với công chúng, đi sâuvào lòng công chúng đặc biệt là giới trẻ – ngƣời sẽ kế tục sự nghiệp của cha anh. – 13 -Tiểu luận: Đại Cương Mỹ Học TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chèo cổ Thái Bình – Nhiều tác giả – Sở Văn hoá Thông tin Thái Bình – 1999 2.Sân khấu truyền thống bản sắc dân tộc và sự phát triển – TS Đào Mạnh Hùng (chủ biên) – Nxb sân khấu – 2003 3. Những làn điệu chèo cổ và hát dân ca đồng bằng Bắc bộ (tập 1) – Nhiều tác giả – Nhà Văn hoá trung tâm tỉnh Thái Bình – 2003. 4.Mấy vấn đề về nghệ thuật chèo – Nhiều tác giả – Viện sân khấu – Sở Văn hoá thông tin Thái Bình xuất bản – 1990 – 14 -Tiểu luận: Đại Cương Mỹ Học MỤC LỤC Trang A. Phần mở đầu …………………………………………………………………….1 1. Lí do chọn đề tài …………………………………………………………………1 2. Lịch sử vấn đề ……………………………………………………………………1 3. Yêu cầu đạt đƣợc ………………………………………………………………..1 4. Cấu trúc bài tiểu luận ………………………………………………………….2 B. Phần nội dung ……………………………………………………………………2 Chƣơng I: Cái đẹp trong nghệ thuật sân khấu chèo truyền thống ….2 I. Vài nét về sự hình thành nghệ thuật sân khấu chèo ………………….2 II. Mấy nét đẹp trong nghệ thuật sân khấu chèo truyền thống ………2 1. Cái đẹp trong phong vị chèo ………………………………………………..2 1.1. Sự kết hợp giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn…………………..2 1.2. Sự kết hợp giữa dân gian và bác học ……………………………….3 1.3. Sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại …………………………3 2. Nét đẹp trong cách sử dụng văn học chèo………………………………3 2.1. Sử dụng văn học dân gian và văn học bác học …………………….3 2.2. Sử dụng chất liệu thƣ pháp ………………………………………………..4 3. Nét đẹp của nội dung và hình thức ………………………………………..4 3.1. Về nội dung …………………………………………………………………….5 3.2 Về hình thức …………………………………………………………………….6 4. Nét đẹp trong làn điệu, múa, nhạc, trang trí của nghệ thuật sân khấu chèo truyền thống …………………………………………………………………..6 4.1. Nét đẹp trong làn điệu chèo……………………………………………….7 4.2. Nét đẹp trong múa chèo ……………………………………………………8 4.3. Nét đẹp của âm nhạc chèo …………………………………………………8 4.4. Nét đẹp trong trang trí và đạo cụ ………………………………………..8 Chƣơng II: Tìm hƣớng đi để bảo tồn, giũ gìn và phát triển nghệ thuật sân khấu chèo truyền thống ………………………………………………….. 10 1. Bảo lƣu và phát triển nghệ thuật sân khấu chèo chuyên nghiệp 10 2. Bảo lƣu và phát triển nghệ thuật chèo cơ sở ……………………….. 10 C. Kết Luận ……………………………………………………………………….. 12 – 15 –

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Tiểu luận