Tác Dụng Của Yếu Tố Nghị Luận Trong Văn Bản Tự Sự, Nghị Luận Trong Văn Bản Tự Sự

Mục đích của bài học giúp học sinh hiểu được vai trò của yêu tố nghị luận trong văn bản tự sự.

Đang xem: Tác dụng của yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự

A. HƯỚNG DẪN TÌM HlỂU BÀI

I. Tìm hiểu yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự

Trong văn bản tự sự, để người đọc (người nghe) phải suy nghĩ về một vấn đề nào đó, ngưòi viết (người kể) và nhân vật có khi nghị luận bằng cách nêu lên các ý kiến, nhận xét, cùng những lí lẽ và dẫn chứng. Nội dung đó thường được diễn đạt bằng hình thức lập luận, làm cho câu chuyện mang tính triết lí.

Cách nhận diện dấu hiệu và đặc điểm của nghị luận trong văn bản tự sự.

Nghị luận thực chất là các cuộc đối thoại, trong đó người viết nêu lên những nhận xét, phán đoán, lí lẽ nhằm thuyết phục người nghe, người đọc về một vấn đề, một quan điểm, tư tưởng… nào đó.Trong văn bản nghị luận, người viết ít dùng câu văn miêu tả, câu trần thuật mà thường dùng câu khẳng định, câu phủ định, câu ghép có cặp từ hô ứng: nếu… thì; không những… mà còn; càng… càng; vì thế… cho nên;…

Trong văn nghị luận, người viết thưòng dùng các từ lập luận: tại sao, thật vậy, tuy thế; trước hết,…

II. Đọc hiểu

1. Đọc các đoạn trích dẫn trong SGK, trang 137 – 138.

2. Thực hiện các yêu cầu trong SGK, trang 138.

đây.

B. HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

1. Bài tập này nêu ra ba yêu cầu:

Lời văn trong đoạn trích Lão Hạc ở mục I. 1 SGK là lời của ai?Người ấy đang thuyết phục ai?Thuyết phục điều gì?

Đoạn trích (a) trích từ tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao. Đây có thể coi là cuộc đối thoại ngẫm, ông giáo đối thoại với chính mình, thuyết phục mình rằng: vợ tôi không ác và vì vậy chỉ buồn chứ không nỡ giận. Và để đi đến kết luận, ông giáo đã lập luận bằng cách đưa ra những luận điểm sau:

Nêu vấn đề:Đối với những người xung quanh ta, nếu ta không cố mà hiểu họ thì ta luôn có cớ để tàn nhẫn và độc ác với họ.Phát triển vấn đề: Vợ tôi không phải là người ác, nhưng sở dĩ thị trở nên tàn nhẫn, ích kỉ là vì thị đã quá khổ rồi. Bởi vì:

+ Một người đau chân thì luôn chỉ nghĩ đến cái chân đau của mình.

+ Khi ngưòi ta quá khổ thì người ta không thể nghĩ đến ngưòi khác.

+ Và vì vậy, cái bản tính tốt đẹp của người ta thường dễ bị những nỗi lo lắng, buồn đáu, ích kỉ che lấp mất.

Kết thúc vấn đề: Tôi biết vậy, nên chỉ buồn chứ không nỡ giận.

Có thể nói, trong đoạn trên có rất nhiều câu mang tính chất nghị luận (các câu chứa các quan hệ từ, từ hô ứng với nhau). Đó hầu hết là các câu khẳng định, ngắn gọn và rành mạch để diễn đạt những điều kiện hiển nhiên, cách lập luận đó phù hợp với tính cách của nhân vật ông giáo – một người hiểu biết, giàu tình thương, luôn suy nghĩ và trăn trở về cách sống, cách nhìn đòi.

2. Bài tập này nêu hai yêu cầu:

Ở đoạn trích (b) mục 1 trong SGK, Hoạn Thư đã lập luận như thế nào mà nàng Kiều phải khen rằng: Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời?Tóm tắt các nội dung lí lẽ trong lời lập luận của Hoạn Thư để làm sáng tỏ lời khen của Kiều.

Đoạn trích (b) trích từ tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du, đoạn Kiều báo ăn báo oán. Đây là cuộc đốì thoại giữa Thuý Kiều và Hoạn Thư, với hình thức giông như một phiên toà, trong đó, Thuý Kiều là quan toà buộc tội, Hoạn Thư là bị cáo. Trong “phiên toà” này, mỗi bên đều có những lí lẽ, dẫn chứng… có sức thuyết phục đối với mọi người.

Xem thêm: Bài Tập Về Tập Hợp Và Các Phép Toán Trên Tập Hợp Lớp 10, Các Phép Toán Trên Tập Hợp Và Bài Tập Ứng Dụng

Lập luận của Thuý Kiều thể hiện ở những câu thơ đầu:

Đàn bà dễ có mấy tay,

Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan!

Dễ dàng là thói hồng nhan,

Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.

Sau những lời chào mỉa mai là những lời đay nghiến của nàng đối với Hoạn Thư: xưa nay đàn bà có mấy ai mà lại ghê gốm, cay nghiệt như Hoạn Thư, và càng cay nghiệt lắm thì càng chuốc lấy vào mình nhiều oan trái.

Hoạn Thư bèn đáp lại rằng:

Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,

Ghen tuông thi cũng người ta thường tình.

Nghĩ cho khi gác viết kinh,

Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.

Lòng riêng riêng những kính yêu,

Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai.

Trót lòng gây việc chông gai,

Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”.

Chỉ bằng tám câu thơ nhưng Hoạn Thư đã đưa ra được những lập luận hết sức sắc sảo:

+ Thứ nhất: Tôi là đàn bà nên ghen tuông cũng là chuyện thường tình.

+ Thứ hai: Nhớ khi xưa ở Quan Âm Các viết kinh, tôi đã đối xử tôt với cô, và khi cô bỏ trốn, mang theo của cải của nhà tôi, tôi đã không đuổi theo.

+ Thứ ba: Tôi và cô đều lấy chung chồng, nên rất khó nhường cho nhau.

+ Thứ tư: Giờ tôi trót gây đau khổ cho cô, nên chỉ còn trông cậy vào sự khoan dung độ lượng của cô.

Chính nhờ những lí lẽ đó mà Kiều đã:

Tha ra thì cũng may đời,

Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.

Xem thêm: Phương Trình Chi Phí Sản Xuất Chung, Bài Tập Kế Toán Chi Phí (Có Lời Giải)

Cũng chính vì điều đó mà Hoạn Thư đã được Kiều tha bổng và lại còn được khen: Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời.

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Luận văn