luận văn về du lịch văn hóa

Nội dung luận văn thạc sĩ: Nghiên cứu phát triển du lịch văn hóa tỉnh Thái Bình trình bày cơ sở lý luận về du lịch văn hóa để từ đó xây dựng sản phẩm văn hóa thành sản phẩm du lịch, tổ chức thực hiện và quản lý nhằm mục đích phát triển du lịch và bảo tồn văn hóa. Đánh giá thực trạng khai thác sản phẩm du lịch văn hóa của tỉnh Thái Bình. Nêu ra những đề xuất góp phần phát triển du lịch văn hóa và bảo tồn di sản văn hóa tỉnh Thái Bình.

Đang xem: Luận văn về du lịch văn hóa

Phát triển du lịchDu lịch văn hóaDu lịch Thái BìnhLuận văn thạc sĩLuận văn thạc sĩ du lịchBảo tồn văn hóa

Xem thêm: Tài Liệu Luận Văn Nông Nghiệp Công Nghệ Cao Chọn Lọc, Luận Văn Thạc Sĩ

Nội dung Text: Luận văn thạc sĩ: Nghiên cứu phát triển du lịch văn hóa tỉnh Thái Bình

Xem thêm: Diện Tích Toàn Phần Của Khối Bát Diện, Đều Cạnh Bằng:

Nghiên cứu phát triển du lịch văn hóa tỉnh Thái Bình Phạm Thị Bích Thủy Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Khoa Du lịch học Chuyên ngành: Du lịch; Mã số: Chương trình đào tạo thí điểm Người hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Phạm Hùng Năm bảo vệ: 2011 Abstract. Nghiên cứu cơ sở lý luận về du lịch văn hóa như: tài nguyên du lịch nhân văn, điểm đén du lịch văn hóa, thị trường, nguồn khách …. để từ đó xây dựng sản phẩm văn hóa thành sản phẩm du lịch, tổ chức thực hiện và quản lý nhằm mục đích phát triển du lịch và bảo tồn văn hóa. Đánh giá thực trạng khai thác sản phẩm du lịch văn hóa của tỉnh Thái Bình. Nêu ra những đề xuất góp phần phát triển du lịch văn hóa và bảo tồn di sản văn hóa tỉnh Thái Bình. Keywords. Du lịch; Du lịch văn hóa; Thái Bình ; Phát triển du lịch Content. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong những năm gần đây, du lịch văn hóa đã và đang trở thành xu hướng phổ biến của nhiều quốc gia trên thế giới và khu vực, đặc biệt là với những nước đang phát triển khi mà nền tảng, quy mô, nguồn lực không lớn, chưa có đủ thế mạnh trong việc xây dựng những điểm du lịch đắt tiền, những trung tâm giải trí tầm cỡ và hiện đại. Đối với nước ta, du lịch văn hóa cũng được xác định là một trong những loại hình du lịch đặc thù, có thế mạnh và tiềm năng phát triển phong phú. Thái Bình là tỉnh đồng bằng ven biển, có tài nguyên du lịch nhân văn đa dạng. Hiện nay, loại hình du lịch văn hóa là thế mạnh của tỉnh. Theo thống kê, Thái Bình có hơn 2000 di tích lịch sử – văn hóa, trong đó có gần 100 di tích được xếp hạng Di tích lịch sử và Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia, gần 400 di tích cấp tỉnh. Các di 1 tích lịch sử – văn hóa được phân bố ở khắp các huyện, thị trong tỉnh là cơ sở để tạo nên nhiều sản phẩm du lịch đặc sắc hấp dẫn du khách. Tuy nhiên, thực tế phát triển cho thấy sản phẩm du lịch ở đây còn nghèo, đơn điệu, chưa tương xứng với tiềm năng, chưa mang tính đặc trưng của địa phương, chưa tạo được tính cạnh tranh trên thị trường, vì thế chưa thỏa mãn nhu cầu tìm hiểu của du khách. Nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ, chưa được nghiên cứu thấu đáo, chưa được đầu tư phát triển dẫn tới việc chưa thể thu hút khách du lịch trong và ngoài nước đến Thái Bình. Căn cứ vào thực trạng và tính cấp bách của vấn đề, tác giả đã lựa chọn đề tài “Nghiên cứu phát triển du lịch văn hóa tỉnh Thái Bình” nhằm tìm ra những định hướng và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả khai thác sản phẩm du lịch văn hóa của tỉnh trong thời gian tới, đưa du lịch văn hóa thành loại hình chủ đạo đem lại nhiều lợi ích về kinh tế và xã hội cho Thái Bình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của luận văn khi thực hiện là góp phần phát triển du lịch văn hóa tỉnh Thái Bình cũng như góp phần bảo tồn di sản văn hóa trong kinh doanh du lịch của tỉnh. Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ tiến hành giải quyết các nhiệm vụ chính là: – Nghiên cứu cơ sở lý luận về du lịch văn hóa như: tài nguyên du lịch nhân văn, điểm đến du lịch văn hóa, thị trường, nguồn khách… để từ đó xây dựng sản phẩm văn hóa thành sản phẩm du lịch, tổ chức thực hiện và quản lý chúng nhằm mục đích phát triển du lịch và bảo tồn văn hóa. – Nghiên cứu, đánh giá thực trạng khai thác sản phẩm du lịch văn hóa của tỉnh Thái Bình. – Nêu ra những đề xuất góp phần phát triển du lịch văn hóa và bảo tồn di sản văn hóa tỉnh Thái Bình. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu – Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là: ○ Các di sản văn hóa, tài nguyên văn hóa vật thể và phi vật thể trên địa bàn tỉnh Thái Bình (di tích lịch sử, công trình kiến trúc nghệ thuật, di tích cách mạng, lễ hội dân gian…). 2 ○ Sở văn hóa thể thao và du lịch tỉnh Thái Bình trong vai trò là cơ quan chủ quản để thực hiện, quản lý các hoạt động du lịch văn hóa, xúc tiến, quảng bá và phát triển loại hình du lịch văn hóa ở tỉnh. ○ Các điều kiện thuận lợi và khó khăn trong mục đích đưa di sản văn hóa thành một trong những nguồn tài nguyên du lịch ở Thái Bình, phát triển du lịch văn hóa trở thành một loại hình du lịch chủ đạo của tỉnh. ○ Các kinh nghiệm trong việc bảo tồn, phục hồi, khai thác tài nguyên văn hóa vào mục đích kinh doanh du lịch. – Phạm vi nghiên cứu: ○ Phạm vi về không gian: Nghiên cứu thực tế hoạt động khai thác sản phẩm du lịch văn hóa trên địa bàn các huyện, thành phố của tỉnh Thái Bình. ○ Phạm vi về thời gian: số liệu, tài liệu sẽ thu thập từ thời điểm năm 2000 đến nay, các định hướng phát triển sản phẩm du lịch văn hóa của tỉnh và các giải pháp được đưa ra cho thời gian tới. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp sau để thực hiện nghiên cứu: – Phương pháp tổng hợp, phân tích tài liệu – Phương pháp thông kê, phân loại, so sánh – Phương pháp khảo sát thực địa 5. Bố cục luận văn Luận văn gồm 116 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn chia làm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về du lịch văn hóa và nghiên cứu du lịch văn hóa tỉnh Thái Bình. Chương 2: Thực trạng hoạt động du lịch văn hóa tỉnh Thái Bình. Chương 3: Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động du lịch văn hóa tỉnh Thái Bình. 6. Đóng góp của luận văn – Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về du lịch văn hóa. – Hệ thống hóa giá trị nguồn tài nguyên du lịch văn hóa tỉnh Thái Bình. – Nghiên cứu, khảo sát thực tế hoạt động du lịch văn hóa của tỉnh. Trên cơ sở đó, đánh giá điểm mạnh, điểm yếu của du lịch văn hóa tỉnh Thái Bình. – Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển du lịch văn hóa tỉnh Thái Bình. 3 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH VĂN HÓA VÀ NGHIÊN CỨU DU LỊCH VĂN HÓA TỈNH THÁI BÌNH 1.1. Những vấn đề lý luận về du lịch văn hóa 1.1.1. Du lịch văn hóa Bên cạnh những loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du lịch khám chữa bệnh, du lịch mạo hiểm, du lịch giáo dục…, du lịch văn hóa, gần đây, đang là xu hướng phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới, bởi đem lại giá trị lớn cho cộng đồng xã hội. “Du lịch văn hóa là loại hình du lịch mà mục tiêu là khám phá những di tích và di chỉ. Nó mang lại những ảnh hưởng tích cực bằng việc đóng góp vào việc duy tu, bảo tồn. Loại hình này trên thực tế đã minh chứng cho những nỗ lực bảo tồn và tôn tạo đap ứng nhu cầu của cộng đồng vì những lợi ích văn hóa – kinh tế – xã hội” (ICOMOS). Ở nhiều nước, nhất là ở Đông Nam Á (theo SEAMEO SPAFA), về mặt lý thuyết người ta xếp loại hình du lịch văn hóa (Cultural Tourism) vào loại hình du lịch sinh thái (Eco Tourism) bởi cho rằng sinh thái học (Escology) bao gồm cả sinh thái học nhân văn (Human Ecology). Dù tiếp cận dưới góc độ nào thì du lịch văn hóa cũng là một lĩnh vực hoạt động của du lịch, lấy việc khai thác tài nguyên du lịch nhân văn là mục đích để tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu thưởng thức những giá trị văn hóa của du khách. 1.1.2. Tài nguyên du lịch nhân văn Du lịch văn hóa sử dụng văn hóa như là nguồn lực, hay nói cách khác, văn hóa là nguồn tài nguyên độc đáo của du lịch, là “nguyên liệu” để hình thành nên hoạt động du lịch. Không có tài nguyên du lịch văn hóa thì không có loại hình du lịch văn hóa. Các tài nguyên này đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành các tuyến du lịch, các điểm du lịch và khơi gợi trí tò mò của du khách. Tài nguyên du lịch văn hóa gồm 2 loại cơ bản: tài nguyên vật thể và tài nguyên phi vật thể. Tài nguyên văn hóa vật thể là những sáng tạo của con người tồn tại, hiện hữu trong không gian mà có thể cảm nhận bằng các giác quan như thị giác, xúc giác. Chẳng hạn, đó là những di tích lịch sử văn hóa, những mặt hàng thủ công, các công cụ trong sinh hoạt, sản xuất, các món ăn dân tộc… Tài nguyên văn hóa phi 4 vật thể như lễ hội, các loại hình nghệ thuật, cách ứng xử, giao tiếp… lại được cảm nhận một cách gián tiếp và “vô hình” hơn. Tài nguyên du lịch nhân văn có những tính chất chung là: Đa dạng (làm phong phú sản phẩm du lịch), Hấp dẫn (thu hút du khách), Độc đáo (là nét riêng có, đặc trưng), Không dịch chuyển (ngay cả khi có các sản phẩm mô phỏng cũng không thay thế được), và Dễ tổn thất. Trong khi tài nguyên du lịch tự nhiên tạm coi là vô hạn (tất nhiên, vô hạn tương đối) thì tài nguyên du lịch nhân văn và xã hội lại là hữu hạn (cần bảo vệ để khai thác lâu dài). Tài nguyên du lịch nhân văn còn mang những đặc điểm chung như có mối quan hệ chặt chẽ với điều kiện tự nhiên, tài nguyên tự nhiên, với các điều kiện kinh tế – xã hội, chịu sự chi phối của các quy luật tự nhiên, quy luật văn hóa… Vì vậy, mỗi quốc gia, mỗi vùng, mỗi địa phương thường hiện hữu tài nguyên du lịch nhân văn mang tính đặc sắc, độc đáo riêng để hấp dẫn du khách. Tính chất của tài nguyên du lịch nhân văn là tạo nên sự hứng thú đối với du khách về nhu cầu tìm hiểu lịch sử, tìm về cội nguồn, góp phần làm nảy sinh, thúc đẩy động cơ đi du lịch nói chung, du lịch văn hóa nói riêng. 1.1.3. Điểm đến du lịch văn hóa Theo M.Buchvarov (1982) điểm du lịch là cấp thấp nhất trong hệ thống phân vị du lịch gồm 5 cấp: điểm du lịch – hạt nhân du lịch – tiểu vùng du lịch – á vùng du lịch – vùng du lịch. Về mặt lãnh thổ, điểm du lịch có quy mô nhỏ, “là nơi tập trung một loại tài nguyên nào đó (tự nhiên, văn hóa – lịch sử hoặc kinh tế xã hội) hay một loại công trình riêng biệt phục vụ du lịch hoặc kết hợp cả hai ở quy mô nhỏ”. Như vậy, có thể hiểu điểm đến du lịch văn hóa là nơi tập trung một loại tài nguyên du lịch nhân văn nào đó phục vụ du lịch, đặc biệt là du lịch văn hóa; và có nguồn thu từ du lịch. Điểm đến du lịch văn hóa cũng cũng có vòng đời như một điểm đến du lịch. 1.1.4. Cơ sở vật chất kỹ thuật của du lịch văn hóa Theo nghĩa rộng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được hiểu là toàn bộ các phương tiện vật chất kỹ thuật được huy động tham gia vào việc khai thác tài nguyên du lịch nhằm tạo ra và thực hiện các dịch vụ và hàng hóa, thỏa mãn nhu cầu của du khách trong chuyến hành trình của họ. Theo cách hiểu này, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch bao gồm các cơ sở vật chất kỹ thuật của bản thân ngành du lịch và cơ sở vật chất kỹ thuật của các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân như mạng lưới và phương tiện 5 giao thông vận tải, hệ thống thông tin liên lạc, công trình cung cấp điện nước… Những yếu tố này được gọi chung là yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng xã hội, giữ vai trò đảm bảo điều kiện chung cho việc phát triển du lịch. Theo nghĩa hẹp, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được hiểu là toàn bộ các phương tiện vật chất kỹ thuật do các tổ chức du lịch xây dựng nhằm khai thác tiềm năng du lịch, tạo ra và làm mới lại các sản phẩm dịch vụ và hàng hóa, làm thỏa mãn nhu cầu của du khách. Chúng bao gồm hệ thống khách sạn, nhà hàng, khu vui chơi, giải trí, phương tiện vận chuyển… và các công trình bổ trợ. Đây chính là yếu tố tác động trực tiếp tới số lượng và chất lượng dịch vụ du lịch. Khi xem xét cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch cần chú ý các thành phần sau: – Cơ sở phục vụ ăn uống và lưu trú như khách sạn, nhà khách, nhà hàng, camping, bungalow… – Mạng lưới cửa hàng chuyên nghiệp: bao gồm mạng lưới cửa hàng thuộc các trung tâm du lịch và mạng lưới thương nghiệp địa phương. – Cơ sở thể thao: gồm công trình thể thao, phòng thể thao, trung tâm thể thao… – Cơ sở y tế: gồm phòng y tế, trung tâm chữa bệnh… nhằm phục vụ du lịch chữa bệnh và cung cấp dịch vụ bổ sung tại các điểm du lịch. – Các công trình phục vụ hoạt động thông tin văn hóa như trung tâm văn hóa, rạp chiếu phim, nhà hát, câu lạc bộ, phòng triển lãm… – Ngoài ra còn có các công trình bổ trợ khác. Như vậy, cơ sở vật chất kỹ thuật của du lịch văn hóa chính là cơ sở vật chất của các điểm du lịch văn hóa, di sản văn hóa, doanh nghiệp kinh doanh về du lịch văn hóa… 1.1.5. Sản phẩm du lịch văn hóa Sản phẩm văn hóa được sinh ra trước sản phẩm du lịch. Ở đâu có con người, ở đó có văn hóa, có sản phẩm văn hóa. “Sản phẩm du lịch là toàn bộ những dịch vụ tạo ra các hàng hóa văn hóa mang tính đặc thù do các cá nhân và tổ chức kinh doanh du lịch cung cấp để phục vụ những nhu cầu của các đối tượng du khách khác nhau; nó phù hợp với những tiêu chí nghề nghiệp theo thông lệ quốc tế; đồng thời chứa đựng những giá trị văn hóa đặc trưng bản địa, đáp ứng và làm thỏa mãn các mục tiêu kinh tế – xã hội đối với các cá nhân, tổ chức 6 và địa phương nơi đang diễn ra các hoạt động kinh doanh du lịch”. Sản phẩm du lịch trước hết là sản phẩm văn hóa và chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. 1.1.6. Khách du lịch văn hóa “Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập từ nơi đến”. Từ định nghĩa về khách du lịch nói chung có thể hiểu rằng khách du lịch văn hóa là người từ nơi khác đến với mục đích thẩm nhận tại chỗ những giá trị vật chất, tinh thần, hữu hình hay vô hình của các di sản văn hóa của một cộng đồng xã hội nhất định. Giống như các loại hình du lịch khác, khách du lịch văn hóa có thể đi với động cơ là nghỉ ngơi, giải trí phục hồi tâm sinh lý; hay đi với mục đích nghiên cứu, tìm hiểu, học tập; hoặc đi du lịch kết hợp với mục đích công vụ, hội nghị, hội thảo. Với mỗi mục đích khác nhau thì du khách có những nhu cầu, sở thích khác nhau tương ứng. 1.1.7. Tổ chức, quản lý du lịch văn hóa – Đối với cơ quan quản lý nhà nước về du lịch: ○ Xây dựng và tổ chức quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển du lịch văn hóa. ○ Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm về tiêu chuẩn định mức kinh tế – kỹ thuật trong hoạt động du lịch văn hóa. ○ Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về du lịch văn hóa. ○ Tổ chức, quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch văn hóa; nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ. ○ Tổ chức điều tra, đánh giá tài nguyên du lịch văn hóa để xây dựng quy hoạch phát triển du lịch văn hóa, xác định tuyến du lịch văn hóa, điểm du lịch văn hóa… ○ Tổ chức hợp tác quốc tế, xúc tiến, quảng bá du lịch văn hóa ở trong và ngoài nước. ○ Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về du lịch, sự phối hợp của các cơ quan nhà nước trong việc quản lý du lịch văn hóa. ○ Cấp, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận về hoạt động du lịch văn hóa. ○ Kiểm tra, giải quyết khiếu nại, xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động du lịch văn hóa. – Đối với chính quyền địa phương: 7 Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình và theo sự phân cấp của Chính phủ có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về du lịch văn hóa tại địa phương; cụ thể hóa quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách phát triển du lịch văn hóa phù hợp với thực tế tại địa phương và có biện pháp đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, vệ sinh môi trường tại khu du lịch văn hóa, điểm du lịch văn hóa, tuyến du lịch văn hóa… – Đối với cơ sở, đơn vị kinh doanh du lịch: Thực hiện các hoạt động của đơn vị, tuân thủ các quy định của nhà nước và hoạt động dưới sự quản lý của cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở địa phương đó. 1.1.8. Bảo tồn di sản văn hóa trong du lịch Giữa văn hóa và du lịch luôn luôn có mối quan hệ biện chứng và trực tiếp. Sự phát triển của du lịch tác động trực tiếp và gián tiếp đến việc chấn hưng và bảo tồn các di sản văn hóa bằng nguồn thu từ hoạt động du lịch. Nhưng sự bùng nổ số lượng khách tham quan, sự phát triển các dịch vụ thiếu kiểm soát, sự buôn bán trái phép đồ cổ, sự mai một văn hóa truyền thống do giao lưu, tiếp xúc… đang là mối nguy cơ đối với các di sản này. Các nhà nghiên cứu đã xây dựng quy trình bảo tồn di sản. Và trong kinh doanh du lịch, việc bảo tồn di sản cần phải được xác định là trách nhiệm của các bên tham gia vào hoạt động du lịch; đó là: Chính quyền địa phương, Doanh nghiệp kinh doanh du lịch, du khách và người dân địa phương. 1.2. Những bài học kinh nghiệm trong nghiên cứu, phát triển du lịch văn hóa 1.2.1. Bài học kinh nghiệm nước ngoài Du lịch văn hóa, ngày nay đang trở thành xu hướng phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới. Loại hình du lịch này được coi là mang lại lợi ích to lớn cho cộng đồng xã hội theo định hướng phát triển bền vững đồng thời làm hồi sinh các di sản và sống lại nhiều phong tục, truyền thống tốt đẹp cổ xưa. Việc tìm hiểu cách thức tổ chức du lịch văn hóa của những địa phương, quốc gia trên thế giới sẽ là bài học quý cho việc tiến hành, triển khai du lịch ở nước ta. Như khai thác du lịch văn hóa và việc giữ gìn văn hóa dân gian của người dân các bộ lạc vùng Iqaluit – Canada; hay việc chấn hưng văn hóa truyền thống và bảo tồn kiến trúc ở cố đô Luang Prabang ở Lào; hoặc việc phát triển mô hình làng văn hóa dân tộc ở Hàn Quốc… sẽ là những kinh nghiệm quý báu cho những quốc gia đang phát triển lấy du lịch văn hóa làm thế mạnh như Việt Nam. 8 1.2.2. Bài học kinh nghiệm trong nước Ở Việt Nam cũng có những địa phương thực hiện thành công việc đưa văn hóa trở thành sản phẩm du lịch, nâng cao giá trị của sản phẩm và thu hút khách. Huế, phố cổ Hội An là hai trong số những địa phương đã xây dựng được hình ảnh, bản sắc của mình trong phát triển du lịch văn hóa. Mặc dù là những địa danh có tài nguyên nhân văn phong phú, có di sản văn hóa thế giới song vẫn ngừng tự làm mới mình, lạ hóa các sản phẩm du lịch quen thuộc. Đó chính là cách làm du lịch hiệu quả và bền vững, là bài học kinh nghiệm trong tổ chức, quản lý, thực hiện du lịch cho nhiều địa phương khác của cả nước, trong đó có Thái Bình. 1.3. Những vấn đề đặt ra khi nghiên cứu du lịch văn hóa tỉnh Thái Bình Từ những nghiên cứu lý thuyết về du lịch văn hóa và gìn giữ văn hóa cho phát triển du lịch theo định hướng bền vững, từ bài học kinh nghiệm tổ chức, thực hiện sản phẩm du lịch văn hóa ở các quốc gia trên thế giới cũng như các địa phương trong nước, khi nghiên cứu du lịch văn hóa tỉnh Thái Bình cần quan tâm tới các vấn đề sau đây: – Tài nguyên du lịch văn hóa của tỉnh Thái Bình – Cơ sở vật chất phục vụ du lịch văn hóa tỉnh Thái Bình – Nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu của phát triển du lịch văn hóa – Thị trường của du lịch văn hóa tỉnh Thái Bình – Sản phẩm du lịch văn hóa của tỉnh Thái Bình – Tổ chức, quản lý, quy hoạch phát triển du lịch văn hóa – Các hoạt động xúc tiến, quảng bá sản phẩm du lịch văn hóa – Những ảnh hưởng, tác động của du lịch tới các di sản văn hóa. Tiểu kết chương 1 Du lịch văn hóa đang là xu thế, là sự lựa chọn của nhiều quốc gia trên thế giới. Việc nghiên cứu cơ sở lý luận về du lịch văn hóa đã và đang là vấn đề thời sự, có ý nghĩa, nhằm giải quyết cả hai mục tiêu phát triển và bảo tồn. Điều đó góp phần làm phong phú thêm cho kho tàng lý luận về du lịch. Trong mục tiêu đó, nhiều quốc gia trên thế giới đã thực hiện thành công việc khai thác tối ưu nguồn tài nguyên nhân văn nhằm phát triển du lịch văn hóa. Mặc dầu, mỗi mảnh đất, mỗi địa phương đều có những yếu tố khác biệt nhất định làm nên bản sắc riêng; song đó vẫn là những kinh nghiệm quý báu, những định 9 hướng có giá trị khoa học và thực tiễn cho Thái Bình trong quá trình phát triển. Đây cũng là chương viết hình thành cơ sở lý luận, soi sáng những nội dung nối tiếp ở những chương sau của đề tài. Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH VĂN HÓA TỈNH THÁI BÌNH 2.1. Khái quát về Thái Bình Thái Bình nằm ở phía Nam đồng bằng châu thổ sông Hồng, cách thủ đô Hà Nội hơn 100km, là tỉnh đồng bằng ven biển, Thái Bình có diện tích 1545km2, với dân số trên 1.785.000 người. Mảnh đất này được coi là địa linh nhân kiệt. Trải qua bề dày lịch sử, người dân Thái Bình đã tạo dựng hàng ngàn di sản văn hóa. Thái Bình hiện còn 2176 di tích văn hóa, bao gồm: 601 ngôi đình, 738 ngôi chùa, 538 miếu thờ, 22 văn chỉ, 26 lăng mộ, 173 từ đường nhà thờ họ, 7 nhà lưu niệm, 59 phủ điện và quán, 12 địa danh lịch sử. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, lịch sử, xã hội cùng nguồn tài nguyên nhân văn phong phú đã trở thành nguồn lực tốt cho phát triển du lịch tỉnh Thái Bình, đặc biệt là loại hình du lịch văn hóa. 2.2. Tài nguyên du lịch văn hóa 2.2.1. Tài nguyên du lịch văn hóa vật thể 2.2.1.1. Di tích lịch sử – Di tích cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng: Một trong những di tích lịch sử tiêu biểu của thời kỳ lịch sử này là đền Tiên La (Hưng Hà) thờ nữ tướng Vũ Thị Thục. – Di tích về Lý Nam Đế và nhà nước Vạn Xuân: Đình Tử Các – miếu Đồn (Thái Thụy), miếu Hai Thôn (Vũ Thư), đình và đền Cổ Trai (Hưng Hà)… – Di tích nhà Đinh: Các di tích phản ánh về thời kỳ này tiêu biểu là đình Lạc Đạo (thành phố Thái Bình), từ đường Bùi Quang Dũng (Vũ Thư), miếu Ba Thôn (Thái Thụy)… – Di tích nhà Lý: Cụm di tích Lưu Xá (Hưng Hà), chùa làng Riệc (Hưng Hà), chùa Keo (Vũ Thư), chùa Phúc Thắng (Vũ Thư)… là những địa danh tiêu biểu còn lại từ thời Lý. – Di tích thời Trần: Các di tích lịch sử phản ánh về thời đại nhà Trần chiếm tỉ lệ nhiều nhất trong các di tích ở Thái Bình, tập trung tại xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà. Tiêu 10 biểu là: khu lăng tẩm – đền thờ các vua Trần, lăng mộ, đền thờ Thái sư Trần Thủ Độ và Linh từ Trần Thị Dung… – Di tích thời Lê – Trịnh: Đình Đông Linh (Quỳnh Phụ), từ đường Hoàng Công Chất (Vũ Thư)… – Di tích thời Nguyễn: Đình Tổ (Tiền Hải), đình Lai Vi (Kiến Xương), đình Các Đông (Thái Thụy)… – Di tích lịch sử các danh nhân: Theo thống kê, Thái Bình có 111 vị đỗ Tiến sĩ. Các di tích còn lại đến nay, thờ 66 vị Tiến sĩ đại khoa tại từ đường, đền và miếu. – Di tích lịch sử cách mạng và kháng chiến: Thái Bình có nhiều di tích lịch sử in dấu một thời kỳ cách mạng hào hùng của dân tộc. Đình, chùa, miếu… là nơi hoạt động của chi bộ Đảng. 2.2.1.2. Di tích kiến trúc nghệ thuật Trong 2176 di tích hiện còn ở Thái Bình, có khoảng gần 18% là di tích kiến trúc nghệ thuật. Trong các di tích đó, có khoảng 20% là di tích kiến trúc nghệ thuật thời Lê, còn lại là di tích thời Nguyễn… Các di tích kiến trúc nghệ thuật được thể hiện rất đa dạng gồm cả đình, chùa, đền, miếu, từ đường. Tiêu biểu là chùa Keo (Vũ Thư), đình An Cố (Thái Thụy), đền Đồng Bằng (Quỳnh Phụ)… 2.2.1.3. Di tích khảo cổ Thái Bình hiện nay còn khá nhiều di tích khảo cổ học. Chúng được phân bố nhiều ở vùng ven sông Luộc, sông Hồng, sông Hóa. Trong số đó, có một di tích khảo cổ mang nhiều ý nghĩa lịch sử và giá trị khoa học, là khu phế tích nhà Trần (Tiến Đức, Hưng Hà). Đây là khu lăng tẩm của nhà Trần và hành cung Long Hưng dưới triều Trần. 2.2.2. Tài nguyên du lịch văn hóa phi vật thể 2.2.2.1 Lễ hội dân gian Lễ hội truyền thống đã có và hiện còn ở Thái Bình đáng được xem là tiêu biểu về số lượng, đa dạng về loại hình. Lễ hội truyền thống Thái Bình được phân bố với mật độ cao vào những tháng nông nhàn, tập trung nhiều vào tháng Tư và tháng Chín. Hội làng Thái Bình có nội dung khá phong phú, có đủ mọi loại hình (lễ hội nông nghiệp, lễ hội tôn giáo, lễ hội lịch sử, lễ hội làng nghề…) và ở loại hình nào cũng có thể tìm được những hội đặc sắc, hấp dẫn. Về cơ bản, lễ hội ở Thái Bình có bốn nội 11 dung: tái hiện cuộc sống nông nghiệp, ttôn vinh các anh hùng dân tộc, tái hiện phong tục, tín ngưỡng, hội thi tài. 2.2.2.2. Nghệ thuật biểu diễn truyền thống Nghệ thuật biểu diễn truyền thống của Thái Bình vừa phong phú vừa đặc sắc, mang đậm yếu tố lịch sử và trữ tình, tiêu biểu: – Nghệ thuật chèo: Thái Bình nổi tiếng với ba vùng chèo là chèo Hà Xá (Hưng Hà), chèo Khuốc (Đông Hưng) và chèo Sáo Đền (Vũ Thư). Đây là những dòng chèo đặc trưng của địa phương. – Múa rối nước: Có 7 phường hội cổ truyền ở các làng Nguyễn, Tăng, Tuộc, Đống, Kỳ Hội, Bắc Lạng, Tây Trong, Tây Ngoài của huyện Đông Hưng; mà nay nổi tiếng hơn cả là làng Nguyên Xá. – Các điệu múa dân gian mang sắc thái phồn thực, bản địa như: múa ông Đùng bà Đà, múa Đánh Bệt, múa Bát Dật, múa Giáo Cờ Giáo Quạt, múa Sênh Tiền, múa Trống – Trắc… 2.2.2.3. Nghề và làng nghề truyền thống Thái Bình là đông dân cư, nên bên cạnh nghề nông truyền thống, người dân nơi đây từ lâu đã học hỏi và làm thêm các nghề thủ công để đảm bảo cuộc sống. Bởi vậy, Thái Bình được biết đến là tỉnh có số lượng làng nghề lớn so với các tỉnh đồng bằng. Theo thống kê mới nhất, Thái Bình có 210 làng nghề, tập trung nhiều ở các huyện Vũ Thư, Hưng Hà, Kiến Xương, Tiền Hải, trong đó có nhiều làng nghề có tiềm năng phát triển du lịch. 2.2.2.4. Trò chơi dân gian Trò chơi dân gian là những sản phẩm mang tính vận động đặc trưng và biểu hiệu tinh thần xuất phát từ trong lao động sản xuất. Ở đó thể hiện tính cộng đồng, tính tập thể, tinh thần đoàn kết cao độ. Các ngày hội làng, lễ, tết là dịp để người dân cùng nhau tổ chức các trò chơi dân gian. Ở Thái Bình, các trò chơi dân gian hiện còn rất phong phú và đa dạng. Những trò chơi dân gian ở Thái Bình một mặt thể hiện nét chung của trò chơi dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ, mặt khác thể hiện những đặc trưng của vùng đồng bằng sông nước, làm nông nghiệp. Nếu có cách thức khai thác hợp lý theo thời gian và theo đặc điểm thì đây là một trong những điều kiện tốt làm tăng sức hấp dẫn của sản phẩm du lịch văn hóa, làm phong phú các chương trình du lịch. 2.2.2.5. Văn học dân gian 12 Văn học dân gian lưu truyền ở Thái Bình là sản phẩm tinh thần của nhân dân trong quá trình lao động, sinh hoạt xã hội và đấu tranh với thiên nhiên, với thù trong giặc ngoài. Nó là trí tuệ được kết tinh vừa mang tính địa phương vừa mang tính phổ quát của một vùng đồng bằng đông dân cư, rất phong phú, đa dạng bao gồm cả ca dao, tục ngữ, truyền thuyết, giai thoại, phương ngôn… 2.3. Cơ sở vật chất phục vụ du lịch văn hóa 2.3.1. Hệ thống cơ sở lưu trú Trong những năm gần đây, hệ thống các cơ sở lưu trú, dịch vụ ở Thái Bình phát triển với tốc độ nhanh, từng bước đã được nâng cao về cả chất lượng và số lượng, đáp ứng nhu cầu của khách du lịch ở mức độ nhất định. Năm 2005, cả Thái Bình có 48 cơ sở lưu trú với 685 phòng. Đến năm 2011, đã tăng lên 112 cơ sở với 1825 phòng. Trong đó có 12 khách sạn thuộc sở hữu nhà nước, còn lại là do tư nhân quản lý. Tuy nhiên, số cơ sở lưu trú du lịch tăng nhanh về số lượng nhưng chất lượng không được cải thiện nhiều. Hiện chỉ có 1 khách sạn 4 sao đang xây dựng, 5 khách sạn 1-2 sao. Tốc độ nhà nghỉ tư nhân tăng đáng kể song không có quy hoạch, quy mô không lớn, trang thiết bị, dịch vụ không đầy đủ, dẫn tới công suất sử dụng phòng thấp, chỉ khoảng 55 – 60% 2.3.2. Hệ thống cơ sở kinh doanh ăn uống Các nhà hàng ăn uống ở Thái Bình nhìn chung thiếu, chỉ có nhà hàng trong khách sạn Thái Bình là đủ tiêu chuẩn phục vụ khách quốc tế, nhưng nay đang trong quá trình xây dựng. Những năm gần đây các quán ăn, nhà hàng tư nhân của Thái Bình phát triển với tốc độ khá nhanh, phần nào đáp ứng nhu cầu của khách du lịch đang tăng lên về số lượng, nhưng chủ yếu cũng chỉ phục vụ khách nội địa, còn nhiều hạn chế về tiêu chuẩn vệ sinh và trình độ phục vụ. 2.3.3. Hệ thống cơ sở kinh doanh lữ hành Hiện tại hoạt động kinh doanh lữ hành đã bắt đầu có chiều hướng chuyển biến tốt hơn so với các năm trước. Số lượng doanh nghiệp lữ hành tăng nhanh. Năm 2005 có 5 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành, đến năm 2011 toàn tỉnh đã có 11 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành, trong đó có nhiều doanh nghiệp tư nhân, liên doanh năng động, dễ thích ứng với thị trường. Tuy nhiên phương tiện vận chuyển phục vụ khách du lịch tại các doanh nghiệp lữ hành còn gặp nhiều khó khăn. Hiện tại, không có nhiều doanh nghiệp có xe 45 chỗ, một vài doanh nghiệp có xe 16 chỗ, 24 chỗ. 13 2.3.4. Phương tiện vận chuyển khách du lịch Tuy chưa có nhiều đơn vị tổ chức chuyên về dịch vụ này, song do quy luật cung – cầu, dịch vụ vận chuyển khách du lịch ngày càng phát triển, đáp ứng được lượng khách đi du lịch ngày càng cao ở Thái Bình. Theo số liệu thống kê, hiện có khoảng 350 đầu xe chuyên chở khách, chất lượng phục vụ đáp ứng nhu cầu của du khách ngày càng tốt hơn. 2.3.5. Các trung tâm văn hóa, thể thao phục vụ nhu cầu vui chơi, giải trí Ở Thái Bình những năm gần đây, số lượng và chất lượng các trung tâm này đang từng bước được nâng cấp, cải thiện nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của đời sống dân cư địa phương, đồng thời góp phần tham gia vào những sự kiện văn hóa, thể thao, du lịch của tỉnh, của vùng và quốc gia. Năm 2011, thành phố Thái Bình hiện có 1 bảo tàng, 2 trung tâm văn hóa, 1 rạp chiếu phim, 1 nhà triển lãm, 1 nhà hát chèo, 1 nhà hát cải lương, 1 đoàn ca múa kịch, 1 nhà thi đấu, 1 sân vận động, 1 bể bơi lớn, 1 sân tennis… góp phần đáp ứng nhu cầu của khách du lịch. 2.4. Nguồn nhân lực 2.4.1. Thực trạng chung nguồn nhân lực du lịch Thái Bình Nguồn nhân lực du lịch Thái Bình trong 5 năm trở lại đây tăng đáng kể cả về số lượng và chất lượng. Năm 2010 tổng số lao động du lịch là 3305 tăng 3,11 lần so với năm 2005. Trong đó lao động trực tiếp chiếm phần lớn (từ 56,7% – 68,0% qua các năm) và tăng mạnh qua các năm. Năm 2010 số lao động trực tiếp trong ngành du lịch là 2249 tăng gấp 3,31 lần so với năm 2005. Bên cạnh lao động trực tiếp, ngành du lịch của tỉnh còn thu hút hàng nghìn lao động gián tiếp. Giai đoạn 2005 – 2010, số lượng lao động gián tiếp đã tăng 2,61 lần và theo dự báo còn tiếp tục tăng. Tuy nhiên, số lượng lao động trong du lịch đạt trình độ trên đại học, đại học và cao đẳng còn rất khiêm tốn. Năm 2010 lực lượng này chỉ chiếm 11,1% trong tổng số. 2.4.2. Lực lượng cán bộ quản lý nhà nước về du lịch Hiện nay số lượng cán bộ công chức làm việc tại Sở gồm 53 cán bộ thuộc 8 phòng ban chức năng. Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, 90% số cán bộ của Sở là trình độ đại học và trên đại học, bao gồm các hệ cả chính quy và tại chức. Đơn vị sự nghiệp làm việc thường xuyên tại Sở là Trung tâm Xúc tiến Du lịch Thái Bình, được thành lập năm 2009, với số lượng cán bộ gồm 8 thành viên, trình độ từ cao đẳng đến đại học. Tuy 14 nhiên, kiến thức về du lịch, chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. 2.5. Thị trường khách du lịch văn hóa tỉnh Thái Bình 2.5.1. Thực trạng về lượng khách du lịch Số lượng khách du lịch đến Thái Bình có mức tăng trưởng nhanh và đều, mức tăng trưởng bình quân hàng năm giai đoạn 2000 – 2010 là 15,9%. Năm 2000 Thái Bình mới chỉ đón được 92.000 lượt khách, đến năm 2010 lượng khách du lịch đến Thái Bình đạt 450.000 lượt. Trong đó, chủ yếu là khách du lịch nội địa, với mức tăng 15,3% trong vòng 10 năm, chiếm khoảng 96,2% trong tổng số khách tới tỉnh. Khách quốc tế mặc dù mức tăng bình quân năm giai đoạn này khá cao 30,3% nhưng vẫn chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng số (khoảng 3,8%). Trong đó, khách đi du lịch văn hóa chiếm tới 95% tổng số khách phân theo loại hình du lịch. Mặc dù có sự tăng trưởng nhanh chóng trong những năm qua nhưng so với một số tỉnh, thành phố trong cả nước thì ngành du lịch Thái Bình vẫn còn rất nhỏ bé. Lượng khách du lịch hàng năm ít, nhất là khách quốc tế. Năm 2009 chỉ chiếm 1,25% khách nội địa, 0,09% khách quốc tế so với tổng số khách du lịch của cả nước. 2.5.2. Đặc điểm nguồn khách du lịch Khách du lịch đến Thái Bình vẫn chủ yếu khách du lịch kết hợp với các mục đích khác như công tác, hội nghị, hội thảo, nghiên cứu… và khách đi với mục đích thăm thân. Khách du lịch với mục đích thuần túy còn rất hạn chế, chiếm một tỉ lệ nhỏ. Điều này cho thấy, sức hấp dẫn của các điểm du lịch nói chung và điểm du lịch văn hóa ở Thái Bình nói riêng còn hạn chế, chưa đủ sức lôi cuốn khách du lịch. Khách đi du lịch với mục đích kết hợp luôn chiếm tỷ lệ cao: 62,3% với khách nội địa; 52,3% đối với khách quốc tế. Chính bởi lượng khách du lịch hạn chế, số ngày lưu trú không nhiều nên doanh thu từ du lịch của Thái Bình còn khiêm tốn. Tỷ trọng GDP du lịch so với GDP cả tỉnh và so với doanh thu du lịch cả nước chưa đáng kể. Năm 2008, 2009 chỉ chiếm lần lượt 0,8%, 0,9% doanh thu du lịch cả nước. 2.6. Sản phẩm du lịch văn hóa 2.6.1. Sản phẩm du lịch văn hóa vật thể – Du lịch tham quan các di tích lịch sử – văn hóa: với các điểm du lịch nổi tiếng là cụm di tích Lưu Xá (Canh Tân, Hưng Hà), khu di tích và lăng mộ các vua Trần (Tiến Đức, Hưng Hà)… 15 – Du lịch tham quan các di sản tín ngưỡng tâm linh: với các điểm di tích nổi tiếng cả đồng bằng Bắc Bộ như chùa Keo (Vũ Thư) thờ Không Lộ thiền sư, đền Quan (thành phố Thái Bình) thờ Nam Đạo Đại thần tướng, đền Đồng Bằng (Quỳnh Phụ) thờ Vua Cha Bát Hải Động Đình, đền Tiên La (Hưng Hà) thờ Bát Nạn Tướng Quân… – Du lịch tham quan các di tích cách mạng: Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh (Vũ Thư), Khu lưu niệm đồng chí Nguyễn Đức Cảnh (Thái Thụy), nhà thờ Phạm Quang Lịch (Kiến Xương), làng kháng chiến Nguyên Xá (Đông Hưng), Chùa Chung – Mả Bụt (Tiền Hải)… – Du lịch tham quan các di tích danh nhân: cụm di tích lưu niệm danh nhân Lê Quý Đôn (Hưng Hà), đền Quan Trạng (Hưng Hà), từ đường họ Đỗ… – Du lịch tham quan các di tích kiến trúc nghệ thuật: tới các địa chỉ nổi tiếng được biết đến như chùa Keo (Vũ Thư), Đình An Cố (Thái Thụy), Đình Đá (Quỳnh Phụ), Đền Đồng Xâm (Kiến Xương)… 2.6.2. Sản phẩm du lịch văn hóa phi vật thể – Du lịch lễ hội truyền thống: hiện nay Thái Bình có khoảng 200 lễ hội, trong đó có rất nhiều lễ hội tiêu biểu như lễ hội chùa Keo, lễ hội đền Đồng Bằng, lễ hội đền Tiên La, hội đền Đồng Xâm, hội làng Quang Lang, hội đền Vọng Lỗ… – Du lịch làng nghề thủ công truyền thống: làng nghề chạm bạc Đồng Xâm, làng thêu Minh Lãng, làng chiếu Hới, làng nghề ươm tơ Bách Thuận, nghề dệt vải làng Mẹo xã Thái Phương, làng nghề dệt đũi Nam Cao… là những làng nghề có lịch sử lâu đời, sản phẩm đã khẳng định được trên thị trường trong nước và quốc tế. – Du lịch thưởng thức nghệ thuật diễn xướng truyền thống: với các loại hình nghệ thuật nổi tiếng như chiếu chèo làng Khuốc (Đông Hưng), múa rối nước làng Nguyễn (Đông Hưng)… Đây là một trong những ưu thế độc đáo của Thái Bình. – Các sản phẩm du lịch văn hóa khác: ẩm thực, sản phẩm thủ công mỹ nghệ… 2.7. Tổ chức, quản lý hoạt động du lịch văn hóa 2.7.1. Các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở địa phương là Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, tham mưu và giúp Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: văn hóa, thể dục – thể thao và du lịch… Hiện nay, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thái Bình có 55 cán bộ công chức, viên chức; gồm lãnh đạo sở, các phòng nghiệp vụ, các đơn vị sự nghiệp trực thuộc. Năm 2009 Trung tâm 16 Xúc tiến Du lịch trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thái Bình được thành lập, đảm nhận chuyên trách mảng công việc xúc tiến, quảng bá hình ảnh của du lịch Thái Bình. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thái Bình đã phối hợp với Viện Nghiên cứu phát triển du lịch xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Thái Bình thời kỳ 2001 – 2010 và định hướng đến năm 2020, với những định hướng cụ thể về quản lý nhà nước, thị trường du lịch, phát triển sản phẩm (trong đó ưu tiên phát triển sản phẩm du lịch văn hóa), định hướng về xúc tiến, quảng bá du lịch, đào tạo nguồn nhân lực du lịch, dự báo về mức tăng trưởng du lịch Thái Bình và đưa ra các phương án để phát triển du lịch Thái Bình. Đồng thời đang tiến hành xây dựng Quy hoạch phát triển sự nghiệp Văn hóa, Thể thao và Du lịch giai đoạn 2010 – 2020 của tỉnh. 2.7.2. Chính quyền địa phương và Ban quản lý các di tích Cơ quan quản lý trực tiếp các hoạt động du lịch trên địa bàn huyện, thành phố là phòng Công thương trực thuộc Ủy ban nhân dân huyện. Được sự hướng dẫn về nghiệp vụ của sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, phòng Công thương các huyện, thành phố đã triển khai các nhiệm vụ như: tăng cường công tác quản lý đối với các đơn vị, doanh nghiệp kinh doanh du lịch, các khu, điểm du lịch trên địa bàn; phối hợp quảng bá các lễ hội, danh thắng, di tích tới du khách; tổng hợp báo cáo tình hình hoạt động du lịch, xây dựng triển khai kế hoạch phát triển du lịch của địa phương hàng quý, hàng năm. Đội ngũ Ban quản lý khu du lịch, điểm du lịch của Thái Bình hiện nay chưa nhiều. Tính đến năm 2011 mới có 5 Ban quản lý đi vào hoạt động một cách có tổ chức và chính thức là: Ban quản lý Cồn Vành, Ban quản lý khu di tích chùa Keo, Ban quản lý đền Đồng Bằng, Ban quản lý đền Tiên La, Ban quản lý di tích đền Trần; với số lượng trung bình 10 người/ 1 ban quản lý. Lực lượng mỏng, nhiều cán bộ chưa được đào tạo chuyên ngành du lịch, khối lượng công việc nhiều nên công tác quản lý tại điểm của các Ban quản lý vẫn còn một số tồn tại, chưa thực sự hiệu quả. 2.7.3. Các cơ sở, đơn vị du lịch Hiện nay đội ngũ quản lý các doanh nghiệp kinh doanh du lịch trên địa bàn Thái Bình (bao gồm từ cấp trưởng, phó phòng trở lên) là 212 người, bao gồm: Giám đốc, các phó giám đốc doanh nghiệp: 87 người; Trưởng, phó các phòng, kế toán trưởng: 125 người. Hiện Thái Bình đã có hơn 100 cơ sở lưu trú, hiện đang xây dựng 17 khách sạn Dầu khí đạt tiêu chuẩn 4 sao, hơn 10 công ty lữ hành và các công ty vận chuyển khách, 5 trung tâm siêu thị mua bán đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch… Tuy nhiên, trong lực lượng cán bộ làm công tác quản lý các doanh nghiệp kinh doanh du lịch trên địa bàn Thái Bình có một số được chuyển từ các ngành khác sang nhưng chưa được đào tạo bồi dưỡng về du lịch, số còn lại là cán bộ của các doanh nghiệp đơn vị tư nhân hầu hết chưa được đào tạo qua các trường lớp về du lịch. 2.8. Xúc tiến, quảng bá sản phẩm du lịch văn hóa Trung tâm Xúc tiến Du lịch trực thuộc Sở theo được thành lập theo quyết định số 1064/QĐ-UBND ngày 19/05/2009 – là đơn vị chuyên trách về xúc tiến, quảng bá, giới thiệu hình ảnh du lịch Thái Bình. Trung tâm Xúc tiến Du lịch được thành lập nhằm đáp ứng mảng công việc về xúc tiến, quảng bá hình ảnh du lịch Thái Bình. Mặc dù mới thành lập, song năm 2010, nhiều hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch được tổ chức tạo hiệu quả trong phát triển du lịch, thu hút lượng khách du lịch đến với Thái Bình ngày một đông, tổng GDP từ du lịch từng bước tăng trưởng. Cụ thể như: – Sở đã tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh tổ chức thành công Tuần Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thái Bình năm 2010 tại đền Trần (Tiến Đức, Hưng Hà). – Xuất bản gần 2000 tập bản đồ du lịch và đĩa VCD giới thiệu về du lịch Thái Bình trong Tuần lễ, qua đó góp phần giới thiệu hình ảnh khu di tích, lăng mộ các vua Trần và hình ảnh du lịch Thái Bình tới khách du lịch. – Sở phối hợp với Ủy ban nhân dân huyện Tiền Hải tổ chức thành công Tuần Du lịch biển ở Cồn Vành vào hè 2010. – Trung tâm Xúc tiến Du lịch đã phối hợp với Đài Phát thanh – truyền hình Vĩnh Long và Công ty Quảng cáo Nhất thực hiện ghi hình giới thiệu một số điểm du lịch tiêu biểu của Thái Bình trên chương trình truyền hình Du lịch khám phá; tham gia Hội chợ quảng bá du lịch tại Thiên Đường Bảo Sơn nhân dịp đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. 2.9. Tác động của du lịch tới các di sản văn hóa Thái Bình là tỉnh mà hoạt động du lịch diễn ra chưa nhiều, số lượng du khách tới những năm gần đây tuy có tăng nhưng chưa thật đông. Vì vậy, hệ thống di sản văn hóa ở Thái Bình chưa phải chịu nhiều những tác động tiêu cực từ hoạt động du lịch như: sự quá tải về lượng khách vào mùa cao điểm, thương mại hóa, tệ nạn xã hội, sự xuống cấp của chất lượng môi trường… 18 Từ năm 2000, Thái Bình đã có nhiều dự án đầu tư tu bổ, tôn tạo di tích lịch sử văn hóa và khôi phục các làng nghề truyền thống. Nhiều dự án đã hoàn thành và đi vào hoạt động, góp phần cải thiện tình hình hoạt động du lịch của tỉnh với chiều hướng tích cực. Giai đoạn 2001 – 2005 đã huy động tổng vốn đầu tư phát triển du lịch đạt 52,7 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách nhà nước đầu tư cho cơ sở hạ tầng du lịch là 27,528 tỷ đồng. Giai đoạn 2006 – 2010 huy động tổng vốn đầu tư cho phát triển du lịch đạt 280 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách nhà nước đầu tư cho cơ sở hạ tầng du lịch là 65 tỷ đồng. Về doanh thu du lịch, năm 2010 đã đạt được 125 tỷ đồng, góp một phần nhất định vào GDP của toàn tỉnh. Tiểu kết chương 2 Thái Bình là tỉnh có nguồn tài nguyên du lịch nhân văn phong phú, đa dạng; là điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch với nhiều mục đích khác nhau như: tham quan, học tập, nghiên cứu, tìm về nguồn cội, lịch sử, tín ngưỡng tâm linh… Đây là tiền đề tốt để ngành du lịch phát triển, đem lại những cơ hội việc làm, nâng cao đời sống kinh tế và hiểu biết xã hội cho người dân địa phương; đồng thời cũng đem lại doanh thu đóng góp và sự phát triển chung về mọi mặt của tỉnh. Song trên thực tế, du lịch Thái Bình chưa tận dụng và khai thác hiệu quả những tiềm năng, thế mạnh của nguồn tài nguyên này trong quá trình phát triển. Lượng khách du lịch đến đây hàng năm tăng nhưng vẫn còn quá nhỏ, doanh thu từ hoạt động du lịch đóng góp vào GDP của tỉnh chưa nhiều. Điều này đồng nghĩa với mức chi tiêu của khách du lịch đến Thái Bình thấp, thời gian lưu trú ngắn, khách nước ngoài và khách có khả năng thanh toán cao chưa nhiều. Nguyên nhân chính là do sản phẩm du lịch văn hóa của tỉnh nghèo, đơn điệu, chưa phát huy được ưu thế về giá trị và tính độc đáo, chất lượng dịch vụ chưa đáp ứng được nhu cầu của du khách, vì thế chưa có sức cạnh tranh trên thị trường ngày càng đa dạng. Để phát triển du lịch văn hóa Thái Bình hiệu quả và chuyên nghiệp, nhiều vấn đề cần được điều chỉnh, bổ sung, đổi mới. Đó chính là lý do cho nội dung được trình bày ở chương tiếp theo, cũng là chương khép lại của đề tài nghiên cứu này. 19 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH VĂN HÓA TỈNH THÁI BÌNH 3.1. Những căn cứ đề xuất giải pháp 3.1.1. Căn cứ lý luận Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Thái Bình thời kỳ 2001 – 2010 và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Thái Bình thời kỳ 2011 – 2020 đã nêu rõ những định hướng và quan điểm phát triển du lịch của tỉnh trên từng vấn đề. Những giải pháp, phương án triển khai cụ thể phải phù hợp với định hướng phát triển chung của ngành và định hướng phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh, cụ thể trên những phương diện: 3.1.1.1. Định hướng phát triển theo ngành – Mục tiêu kinh tế: Quy hoạch phát triển du lịch là nhằm khai thác có hiệu quả các tiềm năng của Thái Bình, để phát triển ngành du lịch thành ngành kinh tế quan trọng, tăng cường thu hút khách, nâng cao nguồn thu nhập từ du lịch, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng tỷ trọng ngành du lịch vào tổng GDP của tỉnh, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư. – Mục tiêu văn hóa – xã hội: Phát triển du lịch cần đẩy mạnh giao lưu giữa các vùng, các miền trong cả nước và quốc tế, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân, tạo thêm nhiều công ăn việc làm mới cho toàn xã hội. 3.1.1.2. Định hướng phát triển theo lãnh thổ Quy hoạch không gian du lịch của Thái Bình đã được xác định theo 3 tuyến chính là: – Tuyến đường 10 từ Thành phố đi Hải Phòng – Tuyến Thành phố đi Đồng Châu và vùng phụ cận – Tuyến Thành phố đi Diêm Điền – Tuyến du lịch sông Hồng nối Thái Bình với Hưng Yên và thủ đô Hà Nội 3.1.2. Căn cứ thực tiễn – Việc phát triển du lịch chưa tương xứng với tiềm năng. Tài nguyên du lịch nhân văn của Thái Bình phong phú, đặc sắc nhưng sản phẩm lại đơn điệu, chưa hấp dẫn, thiếu tính cạnh tranh, chưa làm tăng lên giá trị điểm đến du lịch trong việc xây dựng chương trình và thiết kế sản phẩm. 20

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Luận văn