luận văn bảo hộ quyền tác giả

Đang xem: Luận văn bảo hộ quyền tác giả

hướng dẫn luận văn thạc sĩ ngành luật dân sự với đề tài: Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số theo pháp luật Việt Nam, cho các bạn có thể tham khảo

DOWNLOAD ZALO 0932091562 at BẢNG BÁO GIÁ DỊCH VỤ VIẾT BÀI TẠI: LUANVANPANDA.COM

Xem thêm: Bài Tiểu Luận Thực Trạng Xuất Khẩu Nông Sản Việt Nam Thực Trạng Và Giải Pháp

1 Comment 4 Likes Statistics Notes

12 hours ago   Delete Reply Block

Xem thêm: Giải Vở Bài Tập Toán Lớp 4 Bài 79 Luyện Tập Trang 90, Bài 79 : Luyện Tập

chBt2 at zippo

Luận văn: Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số, 9đ

1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM HỒNG HẢI BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ TRONG MÔI TRƯỜNG KỸ THUẬT SỐ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Dân sự Mã số: 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Thị Quế Anh HÀ NỘI – 2013 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn là đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Hà Nội, ngày tháng 01 năm 2013 TÁC GIẢ LUẬN VĂN Phạm Hồng Hải 3. MỤC LỤC Trang bìa phụ Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU …………………………………………………………………………………………….1 1. Đặt vấn đề…………………………………………………………………………………………1 2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu………………………………………………….4 3. Kết cấu của luận văn ………………………………………………………………………….4 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ TRONG MÔI TRƯỜNG KỸ THUẬT SỐ …..5 1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHUNG VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ…….5 1.1.1. Khái niệm quyền tác giả………………………………………………………………5 1.1.2. Nội dung quyền tác giả ……………………………………………………………….8 1.2 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MÔI TRƯỜNG KỸ THUẬT SỐ VÀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ TRONG MÔI TRƯỜNG KỸ THUẬT SỐ ……………………………………………………………………………..11 1.2.1 Khái quát chung về môi trường kỹ thuật số………………………………….11 1.2.2 Sự cần thiết của việc bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số ……………………………………………………………………………………14 1.3 CÁC CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ CÓ LIÊN QUAN VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ TRONG MÔI TRƯỜNG KỸ THUẬT SỐ ……..16 1.4 SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ TRONG MÔI TRƯỜNG KỸ THUẬT SỐ ……..19 1.4.1 Trước khi Bộ luật Dân sự 2005 ban hành…………………………………….19 1.4.2 Từ khi Bộ luật Dân sự 2005 ban hành …………………………………………20 4. Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ TRONG MÔI TRƯỜNG KỸ THUẬT SỐ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG……………….. 26 2.1. NHỮNG BỘ PHẬN CẤU THÀNH CỦA QUYỀN TÁC GIẢ TRONG MÔI TRƯỜNG KỸ THUẬT SỐ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM ……………………………………………………………………………..26 2.1.1. Đối tượng bảo hộ quyền tác giả………………………………………………….26 2.1.2. Chủ thể của quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số………………..30 2.1.3. Cơ chế bảo hộ quyền tác giả ………………………………………………………36 2.1.4. Nội dung quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số ……………………36 2.1.5. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số………….43 2.2. CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI MÔI TRƯỜNG KỸ THUẬT SỐ VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG TỪ SAU KHI LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐƯỢC BAN HÀNH ĐẾN NAY…………45 2.2.1. Các biện pháp bảo vệ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số…..45 2.2.2. Thực tiễn áp dụng các biện pháp bảo vệ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số …………………………………………………………………….51 Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ TRONG MÔI TRƯỜNG KỸ THUẬT SỐ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ …………………………………..75 3.1. NHU CẦU CẦN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ TRONG MÔI TRƯỜNG KỸ THUẬT SỐ ……..76 3.1.1. Xuất phát từ nhu cầu hội nhập quốc tế…………………………………………76 3.1.2. Xuất phát từ nhu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam ………….76 3.1.3. Xuất phát từ nhu cầu bảo hộ quyền tác giả đối với tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả ……………………………………………………………………..78 5. 3.2. CÁC KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ TRONG MÔI TRƯỜNG KỸ THUẬT SỐ ……………………………………………………………………………..79 3.2.1. Sự cần thiết ban hành một văn bản pháp luật về bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số…………………………………………………79 3.2.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành về quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số………………………………………………………79 3.3. CÁC KIẾN NGHỊ CHỦ YẾU ĐỐI VỚI NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ TRONG MÔI TRƯỜNG KỸ THUẬT SỐ …………………………..80 3.3.1. Nâng cao năng lực kiểm tra, xử lý các hành vi xâm phạm quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số ……………………………………………80 3.3.2. Nâng cao ý thức của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và người sử dụng…………………………………………………………………………..81 3.3.3. Nâng cao năng lực xét xử của Tòa án trong giải quyết tranh chấp và xét xử các vụ án về xâm phạm quyền tác giả trong môi trường KTS……82 3.3.4. Tăng cường hợp tác quốc tế trong bảo hộ và bảo vệ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số………………………………………………………83 KẾT LUẬN……………………………………………………………………………………….86 DANH MỤC TÀ I LIỆU THAM KHẢ O……………………………………………..88 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT SHTT: Sở hữu trí tuệ BLDS: Bô luật dân sự QTG: Quyền tác giả MTKTS: Môi trường kỹ thuật số PC: Personal Computer (Máy tính cá nhân) PDA: Personal Digital Assistant (Thiết bị kỹ thuật số hỗ trợ cá nhân ) Công ước Berne: Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật 1886 Hiệp định TRIPS:Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (AGREEMENT ON TRADE – RELATED ASPECTS OF IPR – TRIPS) Hiệp ước WIPO: Hiệp ước của WIPO về Quyền tác giả (WCT) (1996) với Các tuyên bố đã được thông qua của Hội nghị ngoại giao thông qua Hiệp ước và Các quy định của Công ước Berne (1971) dẫn chiếu trong Hiệp ước Công ước UCC: Công ước toàn cầu về bản quyền CD: Compact disk (đĩa Compact) EU: European Union (Liên minh châu Âu) 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề 1.1 Tính cấp thiết của đề tài Vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng trở nên đặc biệt quan trọng và bao giờ cũng là mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia. Chưa bao giờ các vấn đề liên quan đến việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) lại đặt ra gay gắt, cấp bách như hiện nay. Trí tuệ vốn là tài sản của công dân, vì vậy, bản thân các quan hệ của quyền tác giả, quyền tác giả quyết định nội dung pháp luật bảo hộ nó. Thực tế cho thấy, hiện nay, tình trạng vi phạm bản quyền diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực với các hình thức và mức độ khác nhau, nhất là trong lĩnh vực âm nhạc số, sách điện tử (Ebook), báo điện tử,… Tình trạng này gây thiệt hại và ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sáng tạo, môi trường đầu tư, phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội của đất nước và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong môi trường kỹ thuật số hiện nay ngày càng phát triển và được sử dụng rộng rãi trong đó có quyền tác giả. Tính chất “lan truyền” nhanh của môi trường này đã tạo cơ hội cho người sử dụng tiếp cận quyền tác giả một cách nhanh nhất, song các hành vi xâm phạm quyền tác giả trong lĩnh vực này cũng khá phổ biến, dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong thời gian quan Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để bảo hộ, nhưng thực tiễn áp dụng chưa mang lại hiệu quả cao. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn: "Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số theo pháp luật Việt Nam" để làm đề tài cho luận văn cao học luật của mình. 8. 2 1.2 Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1 Mục tiêu tổng quát Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của vấn đề bảo hộ quyền tác giả, quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay. Qua đó làm sáng tỏ các luận cứ khoa học về bảo hộ quyền tác giả nói chung và bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số nói riêng. Trên cơ sở đó, xây dựng và kiến nghị một số giải pháp để hoàn thiện quy định về bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số của Việt Nam hiện nay. 1.2.2 Mục tiêu cụ thể Để đạt được những mục đích trên, đề tài tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau đây: + Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về bảo hộ quyền tác giả. + Đánh giá toàn diện về thực trạng hoạt động bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số ở nước ta hiện nay. + Tìm ra những hạn chế, bất cập trong các quy định về bảo hộ quyền tác giả hiện nay ở nước ta. + Đưa ra các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện vào hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền tác giả nói chung và bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số nói riêng. + Đáp ứng yêu cầu bảo hộ quyền tác giả và nhu cầu phát triển kinh tế, nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. 1.3 Tính mới và những đóng góp của đề tài Việc tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống các chính sách, quy định pháp luật về bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số ở nước ta trong tình hình phát triển kinh tế – xã hội hiện nay, nhất là từ khi Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới là điều cần thiết để góp phần hoàn thiện 9. 3 hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ quyền tác giả, mà cụ thể là quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số nói riêng. Thông qua việc nghiên cứu đề tài, mong muốn được đóng góp: – Mang lại cách nhìn tổng quan và cụ thể các vấn đề khoa học pháp lý liên quan đến hoạt động sử dụng bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số hiện nay. – Đưa ra và luận giải một số quan điểm cơ bản về tình trạng vi phạm bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số hiện nay ở nước ta. – Qua việc nghiên cứu, phân tích những khó khăn, thách thức, cách nhìn nhận về vai trò và vị trí của việc sử dụng các quyền tác giả, quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số ở nước ta từ đó nhằm nâng cao dần ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân, tổ chức sử dụng các tác phẩm trong đời sống. – Mong muốn mang lại một cái nhìn mới về việc bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số. Góp phần vào công cuộc bảo vệ, chống vi phạm quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số hiện nay ở nước ta. Sẽ góp phần hoàn chỉnh hành lang pháp lý, đảm bảo an toàn, khuyến khích và bảo hộ có hiệu quả các hoạt động sáng tạo cũng như thu hút sự đầu tư. 1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Theo quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009), quyền tác giả là một quyền rộng bao gồm nhiều đối tượng trong các lĩnh vực như: văn học, nghệ thuật, khoa học… Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của đề tài này chỉ tập trung việc phân tích, làm rõ các quy định của quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số theo pháp luật Việt Nam , song song với việc nghiên cứu thực trạng thi hành các quy định đó hiện nay được thực hiện như thế nào. 10. 4 2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu 2.1 Nội dung nghiên cứu Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về bảo hộ quyền tác giả. Đánh giá thực trạng hoạt động bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số. Tìm ra những hạn chế, bất cập cần phải khắc phục và đưa ra các giải pháp trong các quy định về bảo hộ quyền tác giả hiện nay ở nước ta. 2.2 Phương pháp nghiên cứu – Phương pháp luận: Chủ nghĩa duy vật lịch sử, Chủ nghĩa duy vật biện chứng, phép duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. – Các phương pháp cụ thể: phân tích, so sánh, thống kê, tổng hợp. 3. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo hộ quyền tác giả. Chương 2: Những nội dung cơ bản của bảo hộ quyền tác giả đối với môi trường kỹ thuật số theo pháp luật Việt Nam và thực tiễn thực thi. Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số và nâng cao hiệu quả thực thi các biện pháp bảo vệ. 11. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ TRONG MÔI TRƯỜNG KỸ THUẬT SỐ 1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHUNG VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ 1.1.1. Khái niệm quyền tác giả Mục đích chung nhất của hoạt động bảo hộ quyền tác giả là khuyến khích các hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học. Sản phẩm của quá trình này là các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học. Vì vậy, hoạt động bảo hộ quyền tác giả một cách tương xứng và có hiệu quả trong một quốc gia sẽ có vai trò quan trọng trong việc làm giàu và phong phú nền di sản văn hóa đất nước, góp phần đáng kể vào công cuộc phát triển kinh tế, thương mại, văn hóa, giáo dục quốc gia. Thực tế chứng minh là tại các quốc gia có nền công nghiệp bản quyền phát triển thì đều có đóng góp rất lớn vào nền kinh tế quốc dân, có khi chiếm tỷ trọng tới 10% GDP. Vì thế mà khuyến khích hoạt động sáng tạo trí tuệ, phổ biến các sáng tạo đó là điều kiện thiết yếu đối với quá trình phát triển kinh tế. Số lượng sáng tạo trí tuệ của một quốc gia càng nhiều thì quốc gia đó càng có điều kiện để phổ biến các giá trị trí tuệ đó trong và ngoài nước thông qua việc phát triển các ngành công nghiệp sách báo, băng đĩa ghi âm, ghi hình, công nghiệp giải trí,… Do vậy, cùng với việc khuyến khích hoạt động sáng tạo, hoạt động bảo hộ còn dành sự khuyến khích xứng đáng, cổ vũ cho nguồn nhân lực chuyên nghiệp thực hiện việc phổ biến và quảng bá các sản phẩm trí tuệ đã có sự đầu tư thời gian và các nguồn lực tài chính khác phục vụ cho công việc đó. Pháp luật có vai trò quan trọng trong hoạt động bảo hộ quyền tác giả. Hoạt động bảo hộ quyền tác giả được hiểu là việc quy định thông qua pháp luật các quyền hoặc một số ngăn cấm các hành vi phi pháp cụ thể, vì lợi ích 12. 6 của các tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả khác, nhằm đảm bảo những quyền lợi hợp lý và chính đáng của các chủ thể nhất định đối với tác phẩm, đặc biệt là trong trường hợp các chủ thể khác trong xã hội sử dụng các đối tượng này. Bảo hộ quyền tác giả một cách hoàn chỉnh có nghĩa là trao hiệu lực cho các quyền nói trên và xử lý các hành vi vi phạm thông qua các chế tài phù hợp và áp dụng các biện pháp thi hành trong hoạt động tố tụng chống vi phạm đối với các hành vi xâm hại đến những quyền lợi hợp pháp của các chủ thể quyền. Quyền tác giả nói chung được hiểu là quyền nhân thân và tài sản đối với một tác phẩm của tác giả mà tác phẩm đó là kết quả của hoạt động sáng tạo của chính mình, như: quyền sao chép tác phẩm và quyền phân phối hoặc phổ biến các tác phẩm đến công chúng bằng bất kỳ phương tiện nào và cũng còn được hiểu là quyền về việc cho phép người khác sử dụng các tác phẩm theo những cách thức cụ thể. Có những trường hợp tác giả không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả thì chỉ có các quyền nhân thân không gắn với tài sản. Hầu hết pháp luật về quyền tác giả của các quốc gia đều phân biệt rõ giữa quyền kinh tế và quyền tinh thần, hai loại quyền này hợp lại thành quyền tác giả. Thông thường có những hạn chế nhất định do pháp luật đặt ra như về loại hình tác phẩm đủ tiêu chuẩn bảo hộ và về việc thực thi các quyền của các tác giả bao hàm trong Quyền tác giả. Khái niệm này được đề cập tại Công ước BERNE, Điều 2(3) Công ước Quyền tác giả toàn cầu (UCC), Điều I Công ước ROME, Điều I Công ước bản ghi âm, Điều 3 Mẫu Tunis, Điều 11(2) và mẫu ROME, Điều 1<7>,<9>,<10>. Theo luật quyền tác giả, các quyền thuộc quyền tác giả gồm các quyền cấu thành nội hàm của quyền tác giả đối với tác phẩm về các phương thức hoặc các khía cạnh khác nhau của việc sử dụng tác phẩm. Nó được xác định rõ trong luật quyền tác giả về các hành vi quan trọng nhất mà dựa vào đó chủ sỡ hữu quyền tác giả cần phải được bảo hộ. Thông qua việc thi hành các 13. 7 quyền đó, chủ thể sở hữu quyền có thể tự khai tác phẩm hoặc cho phép những chủ thể khác trong xã hội làm công việc đó. Ngoài các quyền kinh tế và quyền tinh thần này, cũng có các quyền tác giả tới cả hai loại quyền đó, như quyền về phóng tác hoặc về dịch, thuộc nhóm quyền làm tác phẩm phái sinh, phản ánh các quyền lợi liên quan đến tới sự toàn vẹn của tác phẩm gốc và các quyền lợi kinh tế về việc khai thác tác phẩm đó dù là dưới hình thức đã được phóng tác, cải biên, chuyển thể, chuyển ngữ (Công ước BERNE, Điều 1; Công ước Quyền tác giả Toàn cầu (UCC) , Điều I) <7>,<10>. Chủ sở hữu của quyền tác giả được hiểu chung là chủ thể mà quyền tác giả đối với tác phẩm thuộc về người đó. Chủ sỡ hữu quyền tác giả nguyên thủy theo thông lệ chung và ngoài trừ một vài trường hợp đặc biệt thay đổi theo các luật quyền tác giả khác nhau, là tác giả, người chiếm hữu quyền tác giả theo luật trên cơ sở sáng tạo ra tác phẩm. Một số luật quyền tác giả cho phép chuyển giao toàn bộ hoặc một phần Quyền tác giả và lúc đó người được chuyển giao sẽ trở thành chủ sở hữu toàn bộ hoặc một phần Quyền tác giả đã được chuyển giao (Công ước BERNE, Điều 14 bis (1); công ước Quyền tác giả Toàn cầu (UCC) , Điều V(2); mẫu Tunis, Điều II) <7>,<10>. Như vậy, có thể hiểu Quyền tác giả hay tác quyền (tiếng Anh: copyright) là độc quyền của một tác giả cho tác phẩm của người này. Quyền tác giả được dùng để bảo vệ các sáng tạo tinh thần có tính chất văn hóa (cũng còn được gọi là tác phẩm) thí dụ như các bài viết về khoa học hay văn học, sáng tác nhạc, ghi âm, tranh vẽ, hình chụp, phim và các chương trình truyền thanh. Quyền này bảo vệ các quyền lợi cá nhân và lợi ích kinh tế của tác giả trong mối liên quan với tác phẩm này. Quyền tác giả không cần phải đăng ký và thuộc về tác giả khi một tác phẩm được ghi giữ lại ít nhất là một lần trên một phương tiện lưu trữ. Quyền tác giả thông thường chỉ được công nhận khi sáng tạo này mới, có một phần công lao của 14. 8 tác giả và có thể chỉ ra được là có tính chất duy nhất. Quyền tác giả được quy định khác nhau trong các nước trên thế giới. 1.1.2. Nội dung quyền tác giả Nội dung quyền tác giả bao gồm các quyền của các chủ thể tham gia QHPLDS này, cụ thể là của tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả. Đó cũng là trọng tâm của sự ra đời luật bảo hộ quyền tác giả. Như vậy quyền tác giả không chỉ đơn thuần là quyền của tác giả mà còn là quyền của chủ sở hữu quyền tác giả. Hiện nay, quyền tác giả được tập trung lại thành hai mảng lớn: quyền nhân thân và quyền tài sản. – Quyền nhân thân Quyền nhân thân bao gồm quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản. Các quyền nhân thân không gắn với tài sản là những quyền gắn liền với các giá trị nhân thân của tác giả và không thể chuyển giao, bao gồm ba quyền: quyền được đặt tên tác phẩm, đứng tên tác phẩm và bảo vệ sự toàn vẹn của nội dung tác phẩm. Nếu chúng ta ví tác phẩm là đứa con tinh thần của tác giả, thì các quyền nhân thân này cũng tương tự quyền của cha mẹ được đặt tên cho con, nhận con và bảo vệ chăm sóc con cái. Vì là quyền nhân thân không được chuyển giao nên nó chỉ được dành cho tác giả (cho dù đồng thời hay không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả). Các quyền này ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín và danh dự của tác giả, tồn tại một cách độc lập đối với quyền tài sản, gắn liền với tác giả kể cả khi quyền sử dụng, định đoạt tác phẩm đã được chuyển giao. Các quyền nhân thân không gắn với tài sản được bảo hộ vô thời hạn, khác với những quyền khác được bảo hộ có thời hạn<23>. Về quyền bảo vệ sự toàn vẹn nội dung của tác phẩm, là quyền bảo vệ sự toàn vẹn liên quan đến "nội dung tác phẩm". Mặc dù quyền nhân thân không gắn với tài sản cũng là quyền quan 15. 9 trọng, nhưng quyền quan trọng nhất trong tất cả các nội dung của quyền tác giả là các quyền nhân thân gắn với tài sản. Đó là quyền cho hay không cho người khác sử dụng tác phẩm. Chính từ này làm phát sinh bản chất độc quyền của quyền tác giả. Nhiều ý kiến cho rằng, trước kia khi chưa có quyền tác giả vẫn có nhà văn, nhạc sỹ, nhà khoa học. Họ có quyền đặt tên, đứng tên, bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, sử dụng tác phẩm hay nhận thù lao, giải thưởng. Nay có quyền tác giả, thì cũng chính những người đó có những quyền này, chẳng có gì khác. Hay nói khác đi, các chế định về quyền tác giả không mang lại cho các chủ thể nhiều quyền hơn cái bản thân họ từ trước đến nay vẫn có. Nhận xét trên không sai nếu chúng ta quên mất một quyền của tác giả/chủ sở hữu quyền tác giả, đó là quyền cho hay không cho người khác sử dụng tác phẩm, vì thế nó chỉ dành cho chủ sở hữu quyền tác giả và tác giả nếu như tác giả cũng đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả. – Quyền tài sản Theo luật Việt Nam, quyền tài sản bao gồm quyền sử dụng và quyền được khai thác tác phẩm dưới các hình thức do pháp luật quy định và chuyển giao các quyền này cho những người khác. Thông thường chủ sở hữu quyền tác giả được hưởng quyền sử dụng, còn tác giả được hưởng thù lao, giải thưởng. Quyền sử dụng bao gồm quyền làm tác phẩm phái sinh như cải biên, chuyển thể; biểu diễn tác phẩm trước công chúng, công bố, phổ biến, trình diễn; sao chép; truyền đạt bằng các phương tiện hữu tuyến hoặc vô tuyến, mạng thông tin điện tử bằng cách ghi âm, ghi hình, phát thanh truyền hình; cho thuê tác phẩm. Các quyền này do tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện. Mọi hành vi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền nêu trên đều phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả <23>. 16. 10 Các hành vi sử dụng tác phẩm quan trọng nhất bao gồm: – Sao chép và phân phối, bán tác phẩm: hành vi sao chép có thể bao gồm sao chép toàn bộ tác phẩm hay một phần quan trọng của tác phẩm. Sao chép khác với trích dẫn. Trích dẫn là việc sử dụng một phần tác phẩm (không đáng kể) của người khác để nêu bật ý tác giả. Việc trích dẫn phải không đơn thuần vì mục đích kinh doanh, không làm ảnh hưởng đến việc sử dụng bình thường tác phẩm và phải nêu nguồn gốc tác phẩm. Các hành vi sử dụng không phải là trích dẫn đều có thể bị coi là sao chép và phải được sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả. Sao chép có thể tiến hành dưới dạng trực tiếp (chẳng hạn như thu băng đĩa, photocopy, sao phần mềm trên ổ cứng máy vi tính) hay dưới dạng gián tiếp (như dùng máy ghi âm, máy quay phim để ghi âm, ghi hình buổi hoà nhạc hay một bộ phim chiếu ở rạp). – Công bố, phổ biến, phát thanh, truyền hình: quyền này còn được gọi là quyền "truyền thông đến công chúng" bao gồm các hành vi trình diễn, phân phối tác phẩm đến một số lượng đáng kể người sử dụng. Như bao gồm trình diễn một vở kịch hay một buổi hoà nhạc, phát hành một đĩa nhạc. Việc đưa một tác phẩm lên mạng ngày nay cũng được coi là truyền thông đến công chúng. – Dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, tuyển tập, chú giải (còn gọi là làm tác phẩm phái sinh). Khi một người muốn dịch, cải biên, chuyển thể một tác phẩm, họ phải xin phép chủ sở hữu quyền tác giả gốc, bởi vì những hành vi kể trên là những hành vi sử dụng tác phẩm, mà chủ sở hữu quyền tác giả có quyền cho hay không cho (Điều 738 BLDS). Ngoài ra, khi một nhà xuất bản muốn phát hành một tác phẩm viết, cũng phải xin chấp thuận của chủ sở hữu quyền tác giả. Mọi hành vi sử dụng tác phẩm mà không được sự đồng ý từ trước của chủ sở hữu quyền tác giả đều bị coi là xâm phạm quyền tác giả (trừ các trường hợp sử dụng hạn chế do pháp luật quy định). Tác phẩm dịch, 17. 11 phóng tác, cải biên, chuyển thể được coi là những tác phẩm riêng, khác với tác phẩm gốc. 1.2 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MÔI TRƯỜNG KỸ THUẬT SỐ VÀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ TRONG MÔI TRƯỜNG KỸ THUẬT SỐ 1.2.1 Khái quát chung về môi trường kỹ thuật số 1.2.1.1 Khái niệm kỹ thuật số Kỹ thuật số là kiểu tín hiệu và định dạng dữ liệu trong ngành điện tử, sử dụng các trạng thái rời rạc khác với tương tự, dùng những thay đổi liên tục của tín hiệu. – Các tín hiệu số tồn tại như các chuỗi số theo thời gian. Thường sử dụng các bit (số) “0” và “1”. – Bit (viết tắt b) là đơn vị thông tin. Bit có thể nhận 2 giá trị 0 hoặc 1. Nó có thể được biểu diễn theo nhiều cách khác nhau. Có thể là trạng thái đóng hay mở của mạch điện, một vệt khắc bằng tia laser trên bề mặt đĩa CD,… . Các bit có thể dùng để thể hiện số tự nhiên trong hệ nhị phân. – Từ số còn dùng để chỉ phương pháp lưu trữ dữ liệu ở dạng số (nhị phân). Ví dụ hình ảnh kỹ thuật số – nghĩa là hình được lưu trữ ở dạng số, tức các màu được mô tả bằng các bit. – Hệ nhị phân (hay hệ đếm cơ số 2) là một hệ đếm cùng hai ký tự để biểu đạt một giá trị số, bằng tổng số các lũy thừa của 2. Hai ký tự đó thường là 0 và 1; chúng được dùng để biểu đạt hai giá trị hiệu điện thế tương ứng (có hiệu điệu thế hoặc hiệu điện thế cao là 1 và không có, hoặc thấp là 0). Do có ưu điểm tính toán đơn giản, dễ dàng thực hiện về mặt vật lý, chẳng hạn như trên các mạch điện tử, hệ nhị phân trở thành một phần kiến tạo căn bản trong các máy tính hiện nay. Như vậy kỹ thuật số được hiểu là mô tả được hiện tượng tự nhiên bằng một chuỗi theo thời gian của hai mức luận lý 0 và 1. Tính năng của kỹ thuật số có những ưu điểm như sau: 18. 12 Thứ nhất là đơn giản trong lưu trữ. Thay vì ghi âm ghi hình phức tạp bằng nhiều mức trong các băng từ tính như băng video, băng cassette… người ta chỉ cần ghi bằng cách đục các lỗ để tượng trưng cho luận lý 0 và 1. Đĩa CD, VCD và DVD theo nguyên tắc này. Người ta đục lỗ rồi cho tia laser chiếu qua để đọc lại dữ liệu. Thứ hai là giao tiếp từ xa. Thay vì phát thanh truyền hình phải xử lý tín hiệu ở nhiều mức, gây méo mó, nghẹt tiếng, sai màu… bây giờ chỉ còn truyền hai mức 0 và 1 dễ truyền, hình ảnh âm thanh được giữ nguyên gốc. Thứ ba là biến hóa. Các chuỗi luận lý 0 và 1 dễ dàng được các nhà toán học xử lý biến hóa vô cùng. Các mạch lọc số cho ra các âm thanh vòm (surround) đủ các kiểu nghe rất hấp dẫn và hoành tráng. Các phương thức xử lý ảnh số cho ra vô vàn các ảnh ghép, các kỷ xảo truyền hình mà tín hiệu tương tự không thể làm được. 1.2.1.2 Về môi trường kỹ thuật số Môi trường kỹ thuật số hiểu theo nghĩa phổ quát nhất là chỉ tất cả tổ hợp các yếu tố bên ngoài, bao trùm của một hệ thống kiểu tín hiệu và định dạng dữ liệu dựa trên thuật số, ở dạng nhị phân với đơn vị là các bit, dùng hai ký tự để biểu đạt một giá trị số (số), “0” và “1”, trên cở sở tổng số các lũy thừa của 2, để định dạng các kiểu tín hiệu và dữ liệu được mô tả bằng các bit. Chúng tác động lên hệ thống này và xác định xu hướng và tình trạng của nó. Hiện nay, kỹ thuật số đã thâm nhập và ứng dụng vào hầu hết các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội: máy tính cá nhân – PC, máy tính xách tay – Laptop, máy ảnh kỹ thuật số – Digital camera, máy nghe nhạc kỹ thuật số – Ipop, máy quay phim kỹ thuất số, điện thoại kỹ thuật số – Iphone, PDMA, máy chơi Games, máy xem phim kỹ thuật số, truyền hình kỹ thuật số, Internet, thư điện tử, trò chuyện trực tuyến, công cụ tìm kiếm trực tuyến, chia sẽ dữ liệu trực tuyến, âm nhạc, truyền hình trực tuyến, thương mại điện tử – 19. 13 eCommerce, giáo dục điện tử – eEducation, giáo dục từ xa – Distance learning, các phương tiện sao lưu giữ kỹ thuật số, các thiết bị kỹ thuật số, ngôi nhà số…tất các đã thâm nhập và chiếm lĩnh mọi mặt của đời sống. 1.2.1.3 Khái niệm quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số Đứng trước các thách thức to lớn và mạnh mẽ như vậy của công nghệ kỹ thuật số thì pháp luật quyền tác giả đã có những đổi mới gì để đáp lại đầy đủ những tiến bộ khoa học, kỹ thuật đó mà vẫn đảm bảo được các giá trị pháp lý truyền thống và sự cân bằng tốt đẹp hiện có giữa các nhà sáng tạo, đầu tư với công chúng sử dụng. Liệu trong môi trường kỹ thuật số có thực sự cần thiết mở rộng khái niệm hay nội hàm các quyền thuộc quyền tác giả tương ứng với việc mở rộng các hạn chế và ngoại lệ đối với các quyền mới này hay không. Có cần thiết phải xây dựng một văn kiện quốc tế mới điều chỉnh hoạt động khai thác, sử dụng tác phẩm trong môi trường mới mẻ và phức tạp này ở cấp độ quốc tế không. Việc này đã được tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) khởi xướng từ những năm đầu của thập niên 1990 song hành với sự bùng nổ của công nghệ thông tin số hóa từ công tác trù bị cho việc soạn thảo văn kiện mới về vấn đề này. Trong môi trường kỹ thuật số các quyền tác giả rất dễ dàng bị vi phạm nếu chúng được đưa vào và truyền thông qua các hệ thống mạng kỹ thuật số tương tác. Cộng đồng quyền tác giả hiện nay mong muốn khai thác các sản phẩm trí tuệ của mình theo cách thức là có thể đưa các sản phẩm này lên mạng và nhận được phí của người sử dụng. Trong chừng mực nào đó, việc thu hút các dịch vụ sở hữu trí tuệ trên cơ sở có thu phí phụ thuộc rất nhiều vào việc quản lý có hiệu quả các quyền này. Trong khi đó, chỉ một chiếc máy tính nối internet, người dùng internet có thể khai thác, sử dụng hàng loạt sản phẩm trí tuệ – các tác phẩm nhiếp ảnh, 20. 14 âm nhạc, văn học, nghệ thuật, khoa học một cách dễ dàng thông qua các trang web mà không cần biết đến tác giả của chúng. 1.2.2 Sự cần thiết của việc bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số Sự phát triển như vũ bão của khoa học tiên tiến đã cho thấy sự cần thiết phải có những cách nhìn và phương thức mới trong việc bảo hộ quyền tác giả. Khác với việc bảo hộ quyền tác giả trên các phương tiện nghe nhìn khác, bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số thật sự khó khăn, là một thách thức to lớn đối với cả tác giả lẫn các cơ quan quản lý nhà nước về công tác bảo hộ quyền tác giả, bởi lẽ môi trường kỹ thuật số là một môi trường “ảo” thông qua mạng Internet và các trình duyệt Web. Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số xuất phát từ những lý do sau đây: – Thứ nhất là dưới góc độ kỹ thuật: Sự hình thành và phát triển của pháp luật về quyền tác giả nói riêng và quyền sở hữu trí tuệ nói chung luôn gắn chặt với sự phát triển của khoa học và công nghệ. Môi trường kỹ thuật số tạo cơ hội cho người sử dụng tiếp cận các tác phẩm nhanh nhất, đồng thời cũng làm gia tăng quy mô của hoạt động sao chép, vi phạm quyền tác giả. Kỹ thuật số, công nghệ số mang đến cơ hội mới trong cách thức thể hiện tác phẩm, đồng thời đã làm thay đổi cách thức lưu giữ tác phẩm, bản ghi âm, chương trình phát sóng, dạng vật chất chứa đựng tác phẩm thay đổi. Các quan niệm về bản gốc, bản sao, tác phẩm đã được thêm vào các khái niệm mới. Số lượng người sử dụng nhiều nhất, đồng thời trong cùng một lúc như Internet (google), Ebook,… dẫn đến rất khó kiểm soát việc sử dụng và vi phạm đến quyền tác giả trong môi trường này. Ngoài ra, sự bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số còn do 21. 15 đòi hỏi của sự phát triển của các phương tiện sao lưu kỹ thuật số, do sự phát triển của công nghệ nén dữ liệu… Với những thành tựu sáng tạo của công nghệ thông tin, con người có thể tiếp cận, khai thác, sử dụng dễ dàng các nguồn thông tin, điều này đồng nghĩa với việc vi phạm quyền tác giả cũng có thể xảy ra một cách dễ dàng và phổ biến. – Thứ hai là dưới góc độ kinh tế: Hành vi xâm phạm quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số khá phổ biến, khó phát hiện việc xâm phạm quyền tài sản của tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả. Đối với việc bảo hộ quyền tác giả nói chung, hành vi vi phạm quyền tác giả vi phạm kỷ cương, trật tự trong quản lý nhà nước, gây thiệt hại về kinh tế, xã hội. Đối với một tác giả hay chủ sở hữu quyền tác giả cụ thể, nếu đối tượng của hành vi vi phạm là tác phẩm thì hành vi quyền tác giả gây thiệt hại về kinh tế cho tác giả (chủ sở hữu quyền tác giả) do không thu được tiền quyền tác giả hoặc thu được ít hơn. Đối với tác giả, hành vi vi phạm quyền tác giả là hành vi tước đoạt lợi ích kinh tế của tác giả (chủ sở hữu quyền tác giả) mà lẽ ra tác giả có thể thu được khi cho phép sử dụng tác phẩm; xâm phạm quyền tác giả còn gây thiệt hại cho nhà nước vì không thu được thuế, đồng thời thường đi kèm với việc sử dụng lợi nhuận bất chính cho hoạt động tội phạm khác. Và trên thực tế, việc phát hiện, đấu tranh chống nạn xâm phạm quyền tác giả, đặc biệt bảo vệ quyền tác giả trọng môi trường kỹ thuật số phức tạp khó khăn hơn. Đã đến lúc cần thay đổi thói quen sử dụng, khai thác các tác phẩm, thành quả sáng tạo của người khác mà không cần xin phép, không cần trả thù lao. Từ phía các cơ quan chức năng, cần có những chính sách, cơ chế phù hợp, chặt chẽ nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người sáng tạo, có như vậy mới có thể khuyến khích được hoạt động sáng tạo. Từ phía công chúng 22. 16 nói chung, cần có ý thức tôn trọng thành quả sáng tạo của người khác. Cần hình thành tâm lý tôn trọng quyền tác giả khi sử dụng, khai thác tác phẩm của người khác, coi việc trả tiền bản quyền là một nghĩa vụ đương nhiên phải thực hiện. Đây không phải là vấn đề có thể giải quyết "ngày một ngày hai", tuy nhiên đã đến lúc phải đưa ra những quyết sách mạnh mẽ và xây dựng lộ trình giải quyết. Có như vậy, chúng ta mới có thể nghĩ đến một thị trường bản quyền lành mạnh, tạo nền tảng cho việc hội nhập ngày một sâu rộng với thế giới và tránh những thiệt thòi không đáng có. 1.3 CÁC CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ CÓ LIÊN QUAN VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ TRONG MÔI TRƯỜNG KỸ THUẬT SỐ – Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật Công ước Berne bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật được ký kết tại Bern – Thụy Sĩ vào ngày 09/9/1886, có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 26 tháng 10 năm 2004. Theo công ước Berne quyền tác giả được thiết lập tự động, không cần phải đăng ký, không cần phải viết trong thông báo quyền tác giả. Công ước Berne cho phép tác giả được hưởng tác quyền suốt đời cộng thêm tối thiểu 50 năm sau đó. Tuy nhiên các quốc gia tuân thủ Công ước được phép nâng thời hạn hưởng tác quyền dài hơn, như Cộng đồng Châu Âu đã làm năm 1993. Hoa Kỳ cũng gia hạn tác quyền, như trong Đạo luật kéo dài bản quyền Sonny Bono năm 1998. Phạm vi bảo hộ của Công ước bao gồm các loại tác phẩm văn học nghệ thuật, khoa học, kể cả trong môi trường kỹ thuật số với những nguyên tắc cơ bản: – Nguyên tắc đối xử quốc gia là nguyên tắc bảo trợ tác phẩm có nguồn gốc từ các quốc gia thành viên của Công ước, tương tự như bảo hộ tác phẩm của công dân chính quốc gia mình. – Nguyên tắc tự động bảo hộ là sự bảo hộ không lệ thuộc vào bất kỳ 23. 17 thủ tục hình thức nào như là thủ tục đăng ký, nộp lưu chiểu hoặc các thủ tục tương tự. – Nguyên tắc độc lập bảo hộ là việc hưởng và thực thi các quyền được đề cập theo công ước độc lập với những gì hiện được hưởng tại nước xuất xứ của tác phẩm <7>. Công ước Berne được quản lý bởi Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (World Intellectual Property Organization, viết tắt là WIPO). Gần như tất cả các quốc gia thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) tuân thủ hầu hết các điều khoản của công ước này. Công ước Berne đã có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 26/10/2004. – Hiệp định TRIPS (Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ) được ký kết vào ngày 15/4/1994 và có hiệu lực ngày từ 01/01/1996 là kết quả của vòng đàm phán Uruguay trong khuôn khổ Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) bao hàm trong Hiệp định là những khía cạnh quyền SHTT liên quan đến thương mại (gọi tắt là Hiệp định TRIPS). Hiệp định TRIPS là những đạo luật liên quan giữa Berne và WTO. Hiệp định TRIPS đề cập đến những vấn đề khác nhau, trong đó có quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số cũng được đề cập tại khoản 2, Điều 10 như sau: “Sưu tập dữ liệu hoặc tư liệu khác, dù ở dạng đọc được bằng máy hoặc dạng khác, mà việc lựa chọn hoặc sắp xếp nội dung của chúng tạo nên những sáng tạo trí tuệ phải được bảo hộ với tư cách như vậy. Việc bảo hộ nói trên, mà chính nó không được mở rộng đến bản thân các dữ liệu hoặc tư liệu, không được làm tổn hại tới bất kỳ bản quyền nào đang tồn tại trong chính dữ liệu hoặc tư liệu đó” <18>. Trở thành thành viên của WTO, Việt Nam cam kết thực hiện đầy đủ Hiệp định về các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPS) của WTO ngay sau khi gia nhập. 24. 18 – Hiệp ước của WIPO về bản quyền (WCT) Hiệp ước WIPO về bản quyền của tổ chức SHTT thế giới (WIPO) bảo trợ được ký kết tại Geneva ngày 20/12/1996. Hiệp ước có 25 điều và các điều khoản của Công ước Bern được dẫn chiếu trong Hiệp ước. Hiệp ước quy định bảo hộ cho sự thể hiện của các tác phẩm chứ không bảo hộ cho bản thân ý tưởng, thủ tục, phương thức hoạt động hoặc các khái niệm toán học… Trong các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả, hiệp ước WIPO lưu ý hai vấn đề: không phân biệt cách thức và hình thức thể hiện chúng; Các dữ liệu hoặc tư liệu khác được sưu tập dưới bất kỳ hình thức nào, mà tạo nên những sáng tạo trí tuệ, thì được bảo hộ. Sự bảo hộ này không dành cho chính bản thân dữ liệu hoặc tư liệu đó và không làm phương hại đến bất kỳ quyền tác giả nào đang tồn tại đối với dữ liệu hoặc tư liệu trong sưu tập đó <11>. Hiệp ước WIPO có đề cập đến một số quyền như: quyền phân phối, quyền truyền đạt tới công chúng là quyền cho phép bất kỳ việc truyền đạt nào tới công chúng bằng vô tuyến hay hữu tuyến, kể cả việc đưa tác phẩm của họ tới công chúng theo cách thức mà những thành viên trong xã hội có thể tiếp cận tác phẩm đó tại địa điểm và thời gian do chính họ lựa chọn. – Công ước toàn cầu về bản quyền (UCC) Công ước toàn cầu về bản quyền (UCC) ra đời trong hoàn cảnh thế giới hình thành hai hệ thống pháp luật quốc tế về quyền tác giả: một bên là những nước tham gia Công ước Berne quy định việc bảo hộ được xác lập tự động và một bên là Mỹ và các quốc gia châu Mỹ La tinh đã quy định về việc phải đăng ký, nộp lưu chiểu và có dấu hiệu quyền tác giả để được bảo hộ quyền tác giả và vì vậy ban đầu họ không tham gia Công ước Berne vì công ước này công nhận quyền tác giả theo nguyên tắc vô điều kiện. Vì vậy, cần phải có một số thỏa thuận giữa các quốc gia ban đầu đã đặt ra yêu cầu về bảo hộ quyền tác giả và những nước tham gia Công ước Berne. Công ước quyền 25. 19 tác giả toàn cầu ra đời năm 1952 cho phép cả hai loại quốc gia trên trở thành thành viên. Công ước này giúp cho các tác phẩm từ các nước thành viên của Công ước Berne có thể được bảo hộ ngay cả ở những nước yêu cầu thủ tục bảo hộ, miễn là các nước thành viên cho biết ký hiệu quyền tác giả, tên của chủ sở hữu quyền tác giả và năm xuất bản lần đầu tiên. Ngoài việc phải cho biết ký hiệu quyền tác giả ©, Công ước còn có một số đặc điểm khác như nguyên tắc đối xử quốc gia và không hồi tố. Tại thời điểm này Việt Nam chưa nộp đơn tham gia Công ước UCC. Đối với những nội dung nêu trên Việt Nam đã tham gia cơ bản các điều ước quốc tế song phương và đa phương về quyền tác giả, điều này đã tạo cho Việt Nam đang dần hội nhập sâu rộng vào cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực này. Có thể nói, các Điều ước và Hiệp ước quốc tế, Hiệp định nêu trên có khoảng trên 200 điều luật, là những quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên. Công dân và pháp nhân các quốc gia thành viên phải có nghĩa vụ khi khai thác các quyền tác giả, quyền liên quan của công dân và pháp nhân Việt Nam, ngược lại công dân và pháp nhân Việt Nam phải thực hiện nghĩa vụ pháp lý khi khai thác, sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan của công dân và pháp nhân của các quốc gia thành viên liên quan. Các Công ước và Hiệp ước quốc tế nêu trên đã và đang tác động tích cực, sâu sắc đến toàn bộ đời sống văn học, nghệ thuật của Việt Nam. 1.4 SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ TRONG MÔI TRƯỜNG KỸ THUẬT SỐ 1.4.1 Trước khi Bộ luật Dân sự 2005 ban hành Ngay từ bản hiến pháp đầu tiên vào năm 1946, Nhà nước Việt Nam đã ghi nhận những quyền cơ bản của công dân liên quan đến quyền tác giả. Nó thể hiện tư tưởng tiến bộ, nhân văn về con người. Đó là quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản của công dân; là việc Nhà nước cam kết bảo vệ quyền lợi 26. 20 của trí thức; tôn trọng quyền tư hữu tư nhân về tài sản. Tư tưởng lập pháp đó đã tiếp tục được thể hiện tại Hiến pháp 1959, 1980 và Hiến pháp 1992 đang có hiệu lực thi hành. Năm 1986 với Nghị định số 142/HĐBT, lần đầu tiên ở Việt Nam, một văn bản riêng biệt về quyền tác giả đã được ban hành với một số quy định cơ bản, ban đầu về quyền tác giả với sự giúp đỡ của hãng VAB (hãng bảo hộ quyền tác giả thuộc Liên Xô trước đây). Trước yêu cầu của phát triển, ngày 02 tháng 12 năm 1994, Ủy Ban thường vụ Quốc hội khóa IX đã thông qua Pháp lệnh về quyền tác giả. Tại kỳ họp thứ 8 Khóa IX, ngày 28 tháng 10 năm 1995, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ luật Dân sự, trong đó có các quy định về quyền tác giả. Với 36 Điều quy định riêng về quyền tác giả tại Chương I, Phần thứ 6 và phần thứ 7 Bộ luật Dân sự, nó đã điều chỉnh hầu hết các quan hệ dân sự về quyền tác giả trong điều kiện đất nước chuyển đổi cơ chế quản lý từ tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Việc ra đời của Bộ luật Dân sự, với các quy định về quyền tác giả là một bước tiến dài về hoạt động lập pháp ở Việt Nam trong lĩnh vực này, có sự giúp đỡ của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO). Nó đã tiếp thu những giá trị tiến bộ từ những văn bản pháp luật đã qua kiểm nghiệm trong cuộc sống, về cơ bản phù hợp với chuẩn mực chung của thế giới. Đồng thời nó đã phản ánh được xu thế phát triển quyền tác giả ở Việt Nam. 1.4.2 Từ khi Bộ luật Dân sự 2005 ban hành – Bộ luật Dân sự 2005 Để đáp ứng yêu cầu mới về việc phát triển hệ thống pháp luật theo sự vận động của xã hội và yêu cầu hội nhập quốc tế, trong đó có vấn đề bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan tại quốc gia, ngày 14/6/2005 Quốc hội khóa 11, kỳ họp thứ 7 đã thông qua BLDS 2005 với 7 phần 36 chương 777 điều. 27. 21 Theo quy định của BLDS 2005 về quyền tác giả và các quyền liên quan thì BLDS 2005 chỉ quy định những vấn đề chung nhất đối với QTG như: tác giả; đối tượng quyền tác giả; nội dung quyền tác giả; thời điểm phát sinh hiệu lực quyền tác giả; chủ sở hữu quyền tác giả…Còn những nội dung cụ thể khác thì do pháp luật về sở hữu trí tuệ quy định. Điều 736 BLDS 2005 quy định tác giả là "người sáng tạo tác phẩm văn học nghệ thuật khoa học là tác giả của tác phẩm đó. Trong trường hợp có hai người hoặc nhiều người cùng sáng tạo ra tác phẩm thì những người đó là đồng tác giả". Còn đối tượng quyền tác giả được quy định tại Điều 737 BLDS 2005 "Đối tượng quyền tác giả bao gồm mọi sản phẩm sáng tạo trong các lĩnh vực văn học nghệ thuật, khoa học được thể hiện dưới bất kỳ hình thức và bằng bất kỳ phương tiện nào, không phân biệt nội dung, giá trị và không phụ thuộc vào bất kỳ thủ tục nào". Nội dung quyền tác giả ở BLDS 2005 bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản (Điều 738 BLDS 2005). – Luật Sở hữu trí tuệ 2005: Luật SHTT năm 2005 được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XI kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005. Sau khi Luật SHTT 2005 ra đời có các văn bản hướng dẫn thi hành về quyền tác giả: Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21/09/2006 của Chính phủ hướng thi hành một số điều dẫn Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan; Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ Nghị định số 47/2009/NĐ-CP của Chính phủ ngày 13/5/2009 quy định về xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan; 28. 22 Chỉ thị 04/2007/CT-TTg ngày 22/2/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường bảo hộ quyền đối với chương trình máy tính; Chỉ thị 36/2008/CT-TTg ngày 31/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường quản lý và thực thi bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan; Thông tư liên tịch số 01/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA- BTP, ngày 29/02/2008 hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC- BVHTT&DL-BKH&CN-BTP ngày 03/4/2008 về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ tại Toà án nhân dân; Thông tư số 29/2009/TT-BTC ngày 10/02/2009 của Bộ Tài chính quy định về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí cấp giấy chứng nhận quyền tác giả, quyền liên quan. – Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009: Do yêu cầu phát triển, thay đổi của xã hội và hội nhập quốc tế, Luật Sở hữu trí tuệ 2005, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XII kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 29/6/2009. Việc ban hành và kịp thời sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ là cần thiết, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của các chủ thể quyền Sở hữu trí tuệ không những cả trong mà ngoài nước. Với 6 phần, 18 chương và 222 điều thì Luật Sở hữu trí tuệ đáp ứng yêu cầu bảo hộ hiệu quả quyền Sở hữu trí tuệ, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Luật SHTT năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã cụ thể hóa các quy định về quyền tác giả nói chung và trong môi trường kỹ thuật số nói riêng; đồng thời nội luật hóa các quy định pháp luật quốc tế về quyền tác giả, bao gồm: 29. 23 – Quyền nhân thân, gồm các quyền: + Đặt tên cho tác phẩm; + Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; + Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; + Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả. – Quyền tài sản, gồm các quyền; + Làm tác phẩm phái sinh; + Biểu diễn tác phẩm trước công chúng; + Sao chép tác phẩm; + Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm; + Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác; + Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính <23>. Sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT (2009) ra đời có các văn bản hướng dẫn thi hành về quyền tác giả: Nghị định số 85/2011/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 100/2006/NĐ-CP hướng dẫn Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan; Nghị định số 119/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ; 30. 24 Nghị định số 109/2011/NĐ-CP ngày 02/12/2011 sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 47/2009/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan; Thông tư liên tịch số: 07/2012/TTLT-BTTTT-BVHTTDL ngày 19/6/2012 của Bộ Thông tin và Truyền thông và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về Quy định trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian trong việc bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan trên môi trường mạng Internet và mạng viễn thông. – Các pháp luật khác có liên quan Luật báo chí, Luật xuất bản, Luật điện ảnh, Luật di sản văn hóa, Luật công nghệ thông tin, Luật hải quan, Bộ luật hình sự, Luật xử lý vi phạm hành chính, Luật quảng cáo, Pháp lệnh thư viện, – Các hiệp định song phương: + Hiệp định giữa Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ vào ngày 27 tháng 6 năm 1997 về thiết lập quan hệ quyền tác giả. + Hiệp định giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về quan hệ thương mại vào ngày ngày 10/12/2001 thỏa thuận tại Điều 4 chương II về quyền tác giả. + Hiệp định giữa Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Liên bang Thụy Sĩ về Bảo hộ sở hữu trí tuệ và hợp tác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ vào ngày 7/7/1999. Các hiệp định này đều đã gián tiếp hoặc trực tiếp có những điều khoản quy định đến quyền tác giả trong môi t

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Luận văn