Khái Niệm Nghị Luận Trong Văn Bản Tự Sự, Giáo Án Bài Nghị Luận Trong Văn Bản Tự Sự

Nghị luận là cơ sở của tư duy lô gíc khoa học. Đặc trưng của nghị luận là sự chặt chẽ, rõ ràng và có sức thuyết phục cao. Mặc dù có những điểm khác nhau như thế nhưng nghị luận vẫn xuất hiện trong các văn bản tự sự. Có thể nói trong tự sự gần như có tất cả các phương thức biểu đạt vì tự sự chính là bức tranh gần gũi với cuộc sống. Trong văn bản tự thì nghị luận chỉ là yếu tố đan xen “”thấp thoáng”” cốt để làm nổi bật sự việc và con người. Để hiểu được điều này chúng ta cùng tìm hiểu bài học trong chương trình Ngữ văn lớp 9: “Nghị luận trong văn bản tự sự”. Mời các bạn tham khảo một số bài soạn hay nhất mà lingocard.vn đã tổng hợp trong bài viết dưới đây để chuẩn bị tốt nội dung tiết học.

Đang xem: Khái niệm nghị luận trong văn bản tự sự

123456
1 0
2
0

I. TÌM HIỂU YẾU TỐ NGHỊ LUẬN TRONG VĂN BẢN TỰ SỰ

Câu 2 trang 137 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Suy nghĩ và thực hiện các yêu cầu sau:

a) Nghị luận là nêu lí lẽ, dẫn chứng để bảo vệ một quan điểm, tư tưởng (luận điểm) nào đó.Căn cứ vào định nghĩa này, hãy tìm và chỉ ra những câu, chữ thể hiện rõ tính chất nghị luận trong hai đoạn trích trên.b) Từ việc tìm hiểu hai đoạn trích, hãy trao đổi trong nhóm để hiểu nội dung và vai trò của yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự. Yếu tố nghị luận đã làm cho đoạn văn sâu sắc như thế nào?(Gợi ý : Để thực hiện các yêu cầu trên, cần chú ý mấy điểm sau:– Trong mỗi đoạn trích, nhân vật nêu ra những luận điểm gì?– Để làm rõ luận điểm đó, người nói đã đưa ra luận cứ gì và lập luận như thế nào?– Các câu văn trong đoạn trích trên thường là loại câu gì? (miêu tả, trần thuật, khẳng định, phủ định, câu ghép có cặp từ hô ứng: nếu…thì; không những…mà còn; càng…càng; vì thế…cho nên…)– Các từ lập luận thường được dùng ở đây là gì? (tại sao, thật vậy, trước hết, sau cùng, nói chung, tóm lại, tuy nhiên,…)

Trả lời:

a. Những câu, chữ thể hiện rõ tính chất nghị luận trong đoạn trích truyện Lão Hạc:

– Nêu vấn đề: nếu không cố để hiểu những người xung quanh thì ta luôn có cớ để tàn nhẫn và độc ác đối với họ.

– Phát triển vấn đề:

+ vợ tôi không ác nhưng khổ quá.

+ khi người ta đau chân thì không còn không nghĩ đến ai được nữa.

+ cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp.

– Kết thúc vấn đề: Tôi biết vậy nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận.

Tóm lại: Đoạn văn nghị luận trên góp phần giúp người đọc hiểu rõ tính cách của nhân vật ông giáo (một người trí thức, thông cảm và thấu hiểu người nông dân), đồng thời làm sâu sắc thêm chủ đề của truyện ngắn Lão Hạc

* Những câu, chữ thể hiện rõ tính chất nghị luận trong đoạn trích Thuý Kiều báo ân báo oán:

– Lập luận của Thuý Kiều:

+ Xưa nay đàn bà có mấy người ghê gớm, cay nghiệt như mụ (Hoạn Thư)

+ Càng cay nghiệt thì càng chuốc lấy oan trái.

– Lập luận của Hoạn Thư:

+ Tôi là đàn bà, chuyện ghen tuông là chuyện bình thường.

+ Ngoài ra tôi đã đối xử tốt với cô khi ở gác viết kinh; khi cô trốn khỏi nhà, tôi cũng chẳng đuổi theo.

+ Tôi với cô có chồng chung, chưa dễ ai nhường cho ai.

+ Nhưng dù sao tôi cũng gây nên tội với cô, bây giờ chỉ trông mong vào sự độ lượng của cô.

Ta thấy: Lập luận sắc sảo của cả Kiều và Hoạn Thư cho người đọc rõ hơn tính cách 2 nhân vật, đồng thời học còn phải suy ngẫm về lẽ ứng xử ở đời.

b. Vai trò của yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự nói chung: tăng thêm chiều sâu cho tác phẩm, góp phần thể hiện rõ nét tính cách nhân vật và tạo sự lôi cuốn đối với người đọc.

Ghi nhớ:

Trong văn bản tự sự, để người đọc (người nghe) phải suy nghĩ về một vấn đề nào đó, người viết (người kể) và nhân vật có khi nghị luận bằng cách nêu lên các ý kiến nhận xét, cùng những kí lẽ và dẫn chứng. Nội dung đó thường được diễn đạt bằng hình thức lập luận, làm cho câu chuyện thêm phần triết lí.

II. LUYỆN TẬP

Câu 1 trang 139 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Lời văn trong đoạn trích Lão Hạc ở mục I.1 là lời của ai? Người ấy đang thuyết phục ai? Thuyết phục điều gì?

Trả lời:

Ông giáo đối thoại với chính mình, thuyết phục chính mình rằng vợ mình không ác để chỉ buồn chứ không nỡ giận. Không những thế, ông giáo còn thuyết phục bạn đọc, thuyết phục mọi người cố gắng tìm hiểu những người xung quanh để cảm thông và yêu thương họ.

Câu 2 trang 139 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Ở đoạn trích (b) mục I.1, Hoạn Thư đã lập luận như thế nào mà nàng Kiều phải khen rằng: Khôn ngoan đến mực, mói năng phải lời? Hãy tóm tắt các nội dung lí lẽ trong lời lập luận của Hoạn Thư để làm sáng tỏ lời khen của nàng Kiều.Trả lời:Nàng Kiều đã khen Hoạn Thư là “Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời” sau khi nghe Hoạn Thư kêu ca chạy tội. Những lời lập luận của Hoạn Thư đã thể hiện rõ điều đó:

– Tôi là đàn bà, chuyện ghen tuông là chuyện bình thường.

– Ngoài ra tôi đã đối xử tốt với cô khi ở gác viết kinh; khi cô trốn khỏi nhà, tôi cũng chẳng đuổi theo.

– Tôi với cô có chồng chung, chưa dễ ai nhường cho ai.

– Nhưng dù sao tôi cũng gây nên tội với cô, bây giờ chỉ trông mong vào sự độ lượng của cô

A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM

Câu 1. Tìm hiểu yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự

1. Đọc các đoạn trích sau:a. Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thương… Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất. Tôi biết vậy, nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận.

(Nam Cao, Lão Hạc)

b.

Thoắt trông nàng đã chào thưa:

“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!

Đàn bà dễ có mấy tay,

Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan!

Dễ dàng là thói hồng nhan,

Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”

Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,

Khấu đầu dưới trướng, liệu điều kêu ca.

Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,

Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.

Nghĩ cho khi gác viết kinh,

Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.

Lòng riêng riêng những kính yêu,

Chồng chung chưa dễ ai nhường cho ai.

Trót lòng gây việc chông gai,

Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”.

Khen cho: “Thật đã nên rằng,

Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời.

Tha ra, thì cũng may đời,

Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.”

(Nguyễn Du, Truyện Kiều)

Câu 2. Suy nghĩ và thực hiện các yêu cầu sau:

a. Nghị luận là nêu lí lẽ, dẫn chứng để bảo vệ một quan điểm, tư tưởng (luận điểm) nào đó.Căn cứ vào định nghĩa này, hãy tìm và chỉ ra những câu, chữ thể hiện rõ tính chất nghị luận trong hai đoạn trích trên.b. Từ việc tìm hiểu hai đoạn trích, hãy trao đổi trong nhóm để hiểu nội dung và vai trò của yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự nói chung. Yếu tố nghị luận có thể làm cho văn bản tự sự thêm sâu sắc như thế nào?(Gợi ý: Để thực hiện các yêu cầu trên, cần chú ý mấy điểm sau:

Trong mỗi đoạn trích, nhân vật nêu ra những luận điểm gì?Để làm rõ luận điểm đó, người nói đã đưa ra luận cứ gì và lập luận như thế nào?Các câu văn trong văn bản tự sự thường là loại câu gì? (miêu tả, trần thuật, khẳng định, phủ định, câu ghcp có cặp từ hô ứng: nếu … thì; không những… mà còn; cùng… càng; vì thế… cho nên…)Các từ ngữ thường được dùng để lập luận trong văn bản tự sự là những từ ngữ nào? (tại sao, thật vậy, trước hết, sau cùng, nói chung, tóm lại, tuy nhiên,…)Trả lời:

a. Đoạn trích (a) “Lão Hạc”

Nếu ta không cố tình hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện…Vợ mình không ác nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình.Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ đến ai được nữa.Mình biết vậy nên mình chỉ buồn nhưng không nỡ giận.Đoạn thơ (b) lập luận trong đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán, là lí lẽ của Hoạn Thư. Đây là người đàn bà khôn ngoan, sắc sảo nên những lí lẽ của Hoạn Thư đưa ra rất hợp tình hợp lí như sau:

Ghen tuông là lẽ thường tình ở phụ nữ.Kể nể những lần Hoạn Thư tha bổng cho Thúy Kiều làm cho Thúy Kiều mang ơn mình.Chồng chung nên có những hờn ghen là tất yếu.Xin được giảm án.b. Dấu hiệu và đặc điểm của lập luận trong văn bản tự sự

Lập luận trong văn bản tự sự là những cuộc đối thoại. Với các nhận xét hoặc phán đoán nhằm thuyết phục người đọc, người ngheTrong đoạn văn lập luận người ta thường dùng các câu phủ định, khẳng định, câu có mệnh đề hô ứng: nếu … thì .. và các từ lập luận.

2. Ghi nhớ

Trong văn bản tự sự, để người đọc (người nghe) phải suy nghĩ về một vấn đề nào đó, người viết (người kể) và nhân vật có khi nghị luận bằng cách nêu lên các ý kiến, nhận xét, cùng những lí lẽ và dẫn chứng. Nội dung đó thường được diễn đạt bằng hình thức lập luận, làm cho câu chuyện thêm phần triết lí.

Xem thêm: Đồ Án Chưng Cất Dầu Thô Sử Dụng Để Thiết Kế Bản Vẽ Pfd P Id, Đồ Án Tốt Nghiệp Chưng Cất Dầu Thô

B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI

Câu 1: (Trang 139 – SGK Ngữ văn 9) Lời văn trong đoạn trích “Lão Hạc” ở mục 1.1 là lời của ai? Người ấy đang thuyết phục ai? Thuyết phục điều gì?

Bài làm:Nghị luận là nêu lí lẽ, dẫn chứng để bảo vệ một quan điểm, tư tưởng (luận điểm) nào đó.Lời văn trong đoạn trích (a), mục là lời của nhân vật ông Giáo đang cố thuyết phục chính những độc giả của câu chuyệnÔng Giáo đang thuyết phục người đọc để cảm thông cho người vợ của mình, bởi thị không ác mà do hoàn cảnh sống quá đói nghèo, cơ cực nên thị phải khép mình với những người xung quanh, bản chất tốt đẹp thì bị những lo lắng của đời sống che lấp. Qua đó, ông Giáo đang thuyết phục với những người xung quanh, hãy biết quan tâm và để ý đến mọi người xung quanh, hãy cố tìm hiểu để thấy được bản chất tốt đẹp của họ.

Câu 2: (Trang 139 – SGK Ngữ văn 9) Ở đoạn trích (b) mục 1.1, Hoạn Thư đã lập luận như thế nào mà nàng Kiều phải khen rằng: “Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời”? Hãy tóm tắt các nội dung lí lẽ trong lời lập luận của Hoạn Thư để làm sáng tỏ lời khen của nàng KiềuBài làm:Trong khung cảnh đối diện với Thúy Kiều, Hoạn Thư đã rất bình tĩnh đưa ra những lập luận, lí lẽ để biện minh cho bản thân mình. Lập luận của Hoạn Thư rất chặt chẽ, vừa có lí, vừa có tình, vừa nhận tội Vừa bào chữa, vừa đề cao người, lại vừa minh oan cho mình.Trước hết, Hoạn Thư đưa ra giải thích sự ghen tuông là tâm lý chung của đàn bà, để mong Kiều thấy đó là lẽ thường tình mà người phụ nữ nào cũng đều thấu hiểu. Sau đó, Hoạn Thư kín đáo kể công đã chạnh lòng thương xót mà cho Kiều ra chép kinh ở Quan Âm Các: Nghĩ cho khi gác viết kinh và dẫu biết mà không bắt giữ khi nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn: Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo. Tiếp theo, Hoạn Thư bày tỏ nỗi lòng, chồng chung nên những hờn ghen là tất yếu, đều là cảnh chồng chung nên chẳng thể nhường nhau được. Sắc sảo và khôn ngoan hơn, cuối cùng Hoạn Thư nhận hết tội lỗi về mình và xin Kiều khoan dung. Trước những lời lẽ của Hoạn Thư, Kiều phải thừa nhận rằng ả “Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời” và đã chấp nhận tha cho Hoạn Thư.Thông qua những lời lẽ biện minh, lập luận chặt chẽ của Hoạn Thư, Nguyễn Du đã tô đậm tính cách của nhân vật, làm cho nội dung tự sự trở nên mạch lạc, khúc chiết.

Kiến thức cơ bản

– Trong văn tự sự để người nghe, người đọc suy nghĩ về một vấn đề nào đó, người viết, người kể và nhân vật có khi nghị luận bằng cách nêu lên các nhận xét, phán đoán, các lí lẽ, dẫn chứng. Nội dung đó thường diễn đạt bằng các hình thức lập luận, làm cho câu chuyện thêm phần triết lí.

– Trong đoạn nghị luận, người viết ít dùng câu miêu tả trần thuật mà dùng nhiều câu khẳng định, có các quan hệ từ: nếu – thì, không những – mà còn…

Hướng dẫn trả lời câu hỏi SGK

Câu 1 & 2 – Trang 138/139 SGK

Đọc các đoạn trích <...>, suy nghĩ và thực hiện các yêu cầu

Trả lời

a) Những câu chữ mang tính chất nghị luận:

– Đoạn văn của Nam Cao + Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiếu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thường…

+ Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa.

– Đoạn thơ của Nguyễn Du

+ Rằng: tôi chút phận đàn bàGhen tuông thì cũng người ta thường tình.

+ Dễ dàng là thói hồng nhanCàng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.

+ Lòng riêng riêng những kính yêuChồng chung chưa dễ ai chiều cho ai!

+ Trót lòng gây việc chông gaiCòn nhờ lượng bá thương bài nào chăng…

b) Vai trò của yếu tố nghị luận trong từng ví dụ:

* Trong đoạn trích của Nam Cao, ông giáo đã đưa ra các luận điểm và lập luận theo lô-gíc sau:

– Nêu vấn đề: Nếu ta không cố tìm mà hiểu những người xung quanh thì ta luôn có cớ để tàn nhẫn và độc ác với họ.

– Phát triển vấn đề: Vợ tôi không ác, nhưng sở dĩ họ trở nên ích kỉ, tàn nhẫn là vì thị đã quá khổ. Vì sao vậy?

+ Khi người ta đau chân thì chỉ nghĩ đến cái chân đau (từ một quy luật tự nhiên).

+ Khi người ta khổ quá thì người ta không còn nghĩ đến ai được nữa (như một quy luật tự nhiên trên mà thôi).

+ Vì cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất.

– Kết thúc vấn đề: “Tôi biết vậy nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận”.

Về hình thức đoạn văn trên chứa rất nhiều từ, câu mang tính nghị luận. Đó là các cầu hô ứng thể hiện các phán đoán dưới dạng nếu… thì; vì thế… cho nên, sở dĩ… là vì, khi A… thì B… Các câu văn khẳng định, ngắn gọn khúc chiết.

* Đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán dùng hình thức nghị luận:

Lập luận của Kiều thể hiện ở mấy câu đầu. Sau câu chào mỉa mai là lời đay nghiến: xưa nay đàn bà có mấy người ghê gớm cay nghiệt như mụ và xưa nay, càng cay nghiệt thì càng chuốc lấy oan trái.

Lập luận của Hoạn Thư nêu lên đến 4 luận điểm:

– Thứ nhất: Tôi là đàn bà nên ghen tuông là chuyện thường tình (nêu một lí lẽ thường tình).

– Thứ hai: Ngoài ra tôi cũng đã đối xử rất tốt với cô khi ở gác viết kinh; khi cô trốn khỏi nhà, tôi cũng chẳng đuổi theo (kể Công).

– Thứ ba: Tôi với cô cùng trong cảnh chồng chung – chắc gì ai nhường cho ai.

– Thứ tư: Nhưng dù sao tôi cũng đã trót gây đau khổ cho cô nên bây giờ chỉ biết trông nhờ vào lượng khoan dung rộng lớn của cô (nhận tội, đề cao tâng bốc Kiều).

Với lập luận như trên, Kiều phải công nhận tài của Hoạn Thư là “Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời”. Và cũng chính nhờ lập luận ấy mà Hoạn Thư đã được Thúy Kiều tha bổng.

Qua đó ta thấy nghị luận trong văn bản tự sự giúp cho văn bản thêm phần triết lí.

Luyện tập

1 – Trang 139 SGK

Lời văn trong đoạn trước (a), mục I.1 là lời của ai? Người ấy đang thuyết phục au? Thuyết phục điều gì?

Trả lời

Đoạn văn trích trong truyện ngắn Lão Hạc là lời của ông giáo đang tự nói với mình cũng là nói với những người xung quanh, nói với người đọc người nghe. Ông giáo muốn thuyết phục mọi người hãy biết quan tâm đến những người xung quanh.

I.Tìm hiểu yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự

1. Câu 1 (trang 137 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

Đọc các đoạn văn.

2. Câu 2 (trang 137 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

a. Đoạn (a) : Đoạn trích “Lão Hạc” :

…nếu ta không cố tình hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ đến ai được nữa.

Đoạn (b) : Lập luận trong đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán.

Lập luận của Kiều là những lời mỉa mai đay nghiến (xưa nay đàn bà ghê gớm, cay nghiệt càng chuốc nhiều oan trái) : “Đàn bà dễ có mấy tay,

Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan !

Dễ dàng là thói hồng nhan,

Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.”

Lập luận của Hoạn Thư :chuyển từ tội hại người thành tội ghen tuông thường tình, từng tha khi Kiều chạy trốn,… nhận lỗi, xin sự rộng lượng khoan hồng : “ Rằng : “Tôi chút phận đàn bà

Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”

b. Nội dung và vai trò yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự : Làm nội dung tự sự mạch lạc, khúc chiết. Tăng tính triết lí cho câu chuyện, tô đậm tính cách nhân vật.

II.Luyện tập Nghị luận trong văn bản tự sự

1. Câu 1 (trang 139 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

Lời văn trong đoạn trích (a), mục I.1 là lời của ông giáo. Ông giáo đang thuyết phục chính mình rằng vợ ông không ác để “chỉ buồn chứ không nỡ giận”.

Xem thêm: Tổng Hợp Đồ Án Tốt Nghiệp Công Nghệ Thông Tin Được Chọn Lựa Hay Nhất

2. Câu 1 (trang 139 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

Trình tự lập luận của Hoạn Thư :

Phận đàn bà, ghen tuông thường tình : xóa sự đối lập trở thành người cùng cảnh ngộ “phận đàn bà”, tôi lớn (hại người) chỉ còn là tội ghen tuông ai cũng có. Từ tội nhân trở thành nạn nhân của chế độ đa thê (chồng chung). Kể công từng tha cho Kiều khi Kiều chạy trốn. Cuối cùng nhận lỗi và cầu mong sự rộng lượng.

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Luận văn