giáo trình lý luận văn học 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (832.77 KB, 105 trang )

Đang xem: Giáo trình lý luận văn học 3

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ

GIÁO TRÌNH

LÍ LUẬN VĂN HỌC 3
(TIẾN TRÌNH VĂN HỌC)

Biên soạn: ThS. Phan Văn Tiến – TS. Nguyễn Thị Hồng Hạnh

CẦN THƠ, 2015

1

2

MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU ………………………………………………………………………………………………… 1
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ TIẾN TRÌNH VĂN HỌC
1.1. Giới thiệu về tiến trình văn học ……………………………………………………………………. 2
1.2. Quy luật vận động của tiến trình văn học ………………………………………………………. 4
1.3. Một số thuật ngữ cơ bản của tiến trình văn học ……………………………………………… 6
Chương 2
CHỦ NGHĨA CỔ ĐIỂN
2.1. Khái niệm ……………………………………………………………………………………………….. 11
2.2. Cở sở hình thành ………………………………………………………………………………………. 11
2.3. Nguyên tắc sáng tác ………………………………………………………………………………….. 12

2.4. Vấn đề chủ nghĩa cổ điển trong văn học Việt Nam……………………………………….. 28
2.5. Một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu ………………………………………………………………. 28
Câu hỏi ôn tập ………………………………………………………………………………………………… 29
Chương 3
CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN
3.1. Khái niệm ……………………………………………………………………………………………….. 30
3.2. Cơ sở hình thành ………………………………………………………………………………………. 30
3.3. Nguyên tắc sáng tác ………………………………………………………………………………….. 32
3.4. Vấn đề chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam ……………………………………. 43
3.5. Một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu ………………………………………………………………. 44
Câu hỏi ôn tập ………………………………………………………………………………………………… 44
Chương 4
CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC PHÊ PHÁN
4.1. Khái niệm ……………………………………………………………………………………………….. 45
4.2. Cơ sở hình thành ………………………………………………………………………………………. 45
4.3. Nguyên tắc sáng tác ………………………………………………………………………………….. 48
4.4. Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam ……………………………………. 63
4.5. Một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu ………………………………………………………………. 64
Câu hỏi ôn tập ………………………………………………………………………………………………… 65
Chương 5
CHỦ NGHĨA TỰ NHIÊN
VÀ CÁC TRÀO LƯU THUỘC CHỦ NGHĨA HIỆN ĐẠI
5.1. Chủ nghĩa tự nhiên …………………………………………………………………………………… 66
5.2. Các trào lưu thuộc chủ nghĩa hiện đại …………………………………………………………. 68
5.3. Một số tác phẩm tiêu biểu …………………………………………………………………………. 75
Câu hỏi ôn tập ………………………………………………………………………………………………… 75
Chương 6
CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
6.1. Khái niệm ……………………………………………………………………………………………….. 77
6.2. Cơ sở hình thành ………………………………………………………………………………………. 77

6.3. Nguyên tắc sáng tác ………………………………………………………………………………….. 79
6.4. Vấn đề chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trong văn học Việt Nam……………. 90
6.5. Một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu ………………………………………………………………. 91

Câu hỏi ôn tập ………………………………………………………………………………………………… 92
Chương 7
MỘT SỐ BIẾN THỂ CỦA CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC
TRONG THẾ KỈ XX
7.1. Chủ nghĩa hiện thực mới (Neorealism) ……………………………………………………….. 93
7.2. Chủ nghĩa hiện thực huyền thoại/ kì ảo (Magics realism) ……………………………… 94
7.3. Chủ nghĩa hiện thực tâm lí (Psychologycal realism) ……………………………………. 96
7.4. Chủ nghĩa hiện thực cấu trúc (Structural realism) ………………………………………… 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………………………………… 98

LỜI NÓI ĐẦU
Trong chương trình đào tạo cử nhân Ngữ Văn, Lí luận văn học 3 (Tiến trình văn
học) có nhiệm vụ trang bị cho người học kiến thức về sự vận động và phát triển của
văn học dựa trên sự tồn tại và phát triển của các trào lưu văn học, các phương pháp
sáng tác. Trong đó, cái ra đời sau bao giờ cũng là kết quả của việc phủ định, kế thừa và
phát huy cái ra đời trước đó. Quá trình vận động và tiến hóa ấy được gọi là tiến trình
văn học.
Tiến trình văn học thực ra có thể nghiên cứu mở rộng sang các giai đoạn cổ
trung đại như lịch sử văn học thường làm. Tuy nhiên, với tư cách là môn khoa học tập
trung nghiên cứu những trào lưu, những phương pháp sáng tác, nên lí luận văn học
thường tập trung vào giai đoạn xuất hiện những trào lưu văn học hoàn chỉnh theo đúng
nghĩa của từ này. Đó là lí do giáo trình này chỉ trình bày tiến trình văn học từ thế kỉ
XVII trở đi, bắt đầu với sự xuất hiện của Chủ nghĩa cổ điển.
Việc dừng lại ở Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa không có nghĩa là tiến

trình văn học chỉ phát triển đến đó. Thực tiễn văn học cho thấy, cuối thế kỉ XX, thế
giới đã chứng kiến sự xuất hiện của Chủ nghĩa hậu hiện đại. Tuy nhiên, trên tinh thần
chọn lọc những trào lưu văn học, những phương pháp sáng tác đã được định hình rõ
nét cả trong thực tiễn sáng tác lẫn trong các công trình nghiên cứu, đồng thời dựa trên
nguồn tài liệu tham khảo có thể thu thập được hiện nay, nhất là trong điều kiện các
sáng tác văn học hậu hiện đại chưa thật phổ biến ở Việt Nam, chúng tôi chưa đưa vào
giáo trình này phần chủ nghĩa hậu hiện đại, mà chỉ giới thiệu một số biến thể của chủ
nghĩa hiện thực ở thế kỉ XX.
Mặc dù chúng tôi đã hết sức nỗ lực, từ việc tham khảo các sách lí luận của
những giáo sư đầu ngành như Lê Đình Kỵ, Phương Lựu, Hà Minh Đức, …, kết hợp
với thực tế giảng dạy, song giáo trình này ắt hẳn còn nhiều thiếu sót. Vì vậy, chúng tôi
rất mong nhận được ý kiến góp ý của quý thầy cô và các bạn sinh viên để giáo trình
ngày một hoàn chỉnh hơn.
Nhóm tác giả

-1-

Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ TIẾN TRÌNH VĂN HỌC
1.1. Giới thiệu về tiến trình văn học
1.1.1. Khái niệm
Tiến trình văn học là sự tồn tại, vận động của bản thân văn học như những hệ
thống chỉnh thể không ngừng phát triển, tiến hóa trong các mối quan hệ đa dạng và
phức tạp.
Xét về mặt không gian, có tiến trình văn học của từng quốc gia, dân tộc đồng
thời có tiến trình văn học văn học của vùng, khu vực và tiến trình văn học của toàn thế
giới (từ thế kỉ XVII trở đi). Xét về mặt thời gian, có tiến trình văn học của từng giai
đoạn, từng thời kì, thời đại lịch sử (của dân tộc cũng như cả thế giới).
Tuy khác nhau về quy mô, giới hạn nhưng các tiến trình văn học hoàn toàn

thống nhất với nhau về bản chất và cấu trúc. Mỗi tiến trình văn học bao giờ cũng gắn
liền với một hình thức tồn tại của nó như chữ viết, hình thức phát hành và giao lưu
giữa tác giả với độc giả cũng như giữa độc giả với nhau. Tiến trình văn học còn là sự
vận động của văn học theo những quy luật đặc thù, bao gồm nhiều giai đoạn, diễn ra
theo một trật tự nhất định không thể đảo ngược, có mở đầu, có phát triển và kết thúc.
Tuy nhiên, tiến trình văn học không phải là trật tự biên niên, càng không phải là sự đắp
đổi, thay thế giản đơn của các sự kiện văn học. Trải qua nhiều giai đoạn vận động, tiến
trình văn học không ngừng phát triển, tiến hóa.
Giáo trình này trình bày vận động và phát triển của tiến trình văn học dựa trên
sự tồn tại và phát triển của các trào lưu văn học, các phương pháp sáng tác. Trong đó,
cái ra đời sau bao giờ cũng là kết quả của việc phủ định, kế thừa và phát huy cái ra đời
trước đó.
1.1.2. Tiến trình văn học với lịch sử văn học
Lịch sử văn học nếu hiểu theo nghĩa là khoa học nghiên cứu quá khứ của văn
học, gồm quy luật hình thành và phát triển của các hiện tượng và quá trình văn học
diễn ra trong những điều kiện xã hội – lịch sử nhất định, thì tiến trình văn học là đối
tượng nghiên cứu của lịch sử văn học. Nhưng lịch sử văn học còn là bản thân tiến trình
vận động, phát triển của các hiện tượng văn học, tiến trình tích lũy liên tục các giá trị
văn học như ngôn ngữ, phong cách và thể loại qua các thời kì khác nhau. Do vậy, có
-2-

thể nói lịch sử văn học là lịch sử ngôn ngữ, lịch sử phong cách, lịch sử thể loại, … Với
ý nghĩa này, tiến trình văn học khác với khái niệm lịch sử văn học. Tiến trình văn học
chỉ sự vận động của văn học trong tổng thể. Nó bao gồm tất cả các tác phẩm văn học
có chất lượng khác nhau, các hình thức tồn tại của văn học (như truyền miệng hay
chép tay, ấn loát, xuất bản, báo chí), các thành tố của đời sống văn học (như nhà văn
và người đọc, các hình thức hội đoàn, hoạt động phê bình, nghiên cứu …), ảnh hưởng
qua lại giữa các nền văn học với các hình thái ý thức xã hội khác (nhất là chính trị,
triết học, đạo đức), với các loại hình nghệ thuật khác (âm nhạc, hội họa, sân khấu, điện

ảnh, …), giữa văn học viết và văn học dân gian, … Qua tổng thể tiến trình văn học,
người ta thấy được sự hình thành và phát triển của văn học như một hình thái ý thức xã
hội đặc thù, một loại hình nghệ thuật, trong đó có quá trình tiến hóa, đổi thay về bản
chất từ nội dung đến hình thức, từ sáng tác đến tiếp nhận, … Nghiên cứu tiến trình văn
học cho ta thấy sự xuất hiện của các hiện tượng văn học như tác giả, quan niệm văn
học, phong cách văn học, trào lưu văn học, phương pháp sáng tác và phê bình văn học,
… Có thể nói, khái niệm tiến trình văn học như một phông nền, ở đó, ta có thể nhận ra
biểu hiện của từng hiện tượng văn học lớn cũng như ý nghĩa của chúng đối với sự phát
triển của văn học.
1.1.3. Tiến trình văn học với mĩ học và lý luận văn học
Vào thời cổ đại, lý luận văn học và mĩ học chưa tách ra khỏi cây trí tuệ chung
của nhân loại. Tư duy nguyên hợp và phép biện chứng tự phát chưa cho phép các đại
biểu của mĩ học cổ đại như Platon, Aristote cảm nhận văn học như một tiến trình
không ngừng vận động và phát triển.
Thời Phục hưng, các nhà lý luận thường đối chiếu văn học đương thời với văn
học cổ đại nhưng họ không nhìn thấy hoạt động sáng tạo ở thời đại mình đã mở ra một
giai đoạn mới trong lịch sử phát triển của nghệ thuật nhân loại mà chỉ là đó chỉ là thời
đại hoàn nguyên, là sự trở về với những giá trị, những cội rễ đích thực của đời sống,
những chuẩn mực từng có từ thời cổ đại nhưng đã bị hao mòn trong suốt đêm trường
trung cổ.
Thế kỉ XVII, các nhà lý luận của chủ nghĩa cổ điển, tiêu biểu là Boileau, không
khái quát những nguyên tắc mĩ học từ chất liệu của thực tiễn nghệ thuật mà có tham
vọng lập pháp cho nghệ thuật, áp đặt cho nghệ thuật những chuẩn mực mang tính quy
phạm. Do thiếu quan điểm lịch sử nên các nhà lập pháp của chủ nghĩa cổ điển đều
chưa thể nhìn thấy văn học như một tiến trình.
-3-

Phải đến thời kì XVIII, nhất là sau cuộc cách mạng tư sản Pháp, khi mà ai cũng
thấy được những thay đổi lớn lao đang diễn ra trong tất cả các lĩnh vực tinh thần và vật

chất của đời sống xã hội thì quan điểm lịch sử về thế giới mới thực sự xuất hiện. Có
thể thấy mầm mống đầu tiên của quan điểm lịch sử về tiến trình văn học thế giới qua
những công trình nghiên cứu của các nhà mĩ học Khai sáng như Lessing, Schiller,
Didro. Họ đã chỉ ra sự khác nhau của văn học giữa thời cổ đại và nghệ thuật tư sản
hiện đại và cho thấy không cần mô phỏng cổ đại cũng có thể sáng tạo ra những kiệt
tác.
Đến Hegel, quan điểm lịch sử về tiến trình văn học mới được hoàn thiện. Do
sống vào thời điểm bùng nổ của cách mạng Pháp nên Hegel ý thức rất rõ về những sự
kiện mang tính chất bước ngoặt của thời đại, giúp ông nhìn thấy được tiến trình của
lịch sử cũng như của văn học. Với quan điểm lịch sử, Hegel đưa ra học thuyết về các
giai đoạn phát triển tượng trưng chủ nghĩa, cổ điển chủ nghĩa, lãng mạn chủ nghĩa.
Trong quan niệm của ông, nghệ thuật có nguồn gốc từ hoạt động thực tiễn, lịch sử phát
triển của nghệ thuật là một bộ phận hợp thành của tiến trình lịch sử chung mang tính
toàn nhân loại. Nhưng với Hegel, hoạt động thực tiễn chỉ là một quá trình tư duy, tồn
tại trong thế giới của tinh thần nên quan điểm lịch sử của ông không tránh khỏi sự
khủng hoảng.
Những mâu thuẫn và tư tưởng siêu hình trong triết học và mĩ học của Hegel đã
được khắc phục trong triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Marx – Lenin. Marx, Engels và Lenin đã có những kiến giải sâu sắc về bản chất và
quy luật phát triển của văn học, với tư cách là một bộ phận của lịch sử xã hội, làm tiền
đề cho những công trình mĩ học, lí luận văn học hiện đại về sau nghiên cứu về tiến
trình văn học. Nội hàm khái niệm tiến trình văn học, nhờ đó, ngày càng được bổ sung,
mở rộng. Cũng cần lưu ý rằng tiến trình văn học vừa là một bộ phận của quá trình lịch
sử xã hội vừa là một hiện tượng đặc thù. Sự vận động và phát triển của văn học chịu sự
quy định của sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội, đồng thời, sự phát triển của
văn học vẫn có một sự độc lập nhất định đối với cơ sở kinh tế.
1.2. Quy luật vận động của tiến trình văn học
Mỗi thời đại, thời kì và giai đoạn văn học bao giờ cũng được bắt đầu bằng việc
phá vỡ những hình thức nghệ thuật đã trở thành những công thức, luật lệ của giai đoạn
văn học trước bằng những đổi mới nghệ thuật. Những phương thức, phương tiện biểu

hiện mới này sẽ được định hình hóa và dần trở thành chuẩn mực. Đến lúc những quy
-4-

phạm này gây cản trở tiến bộ nghệ thuật, thì khi ấy, văn học lại đòi hỏi phải có sự cách
tân. Cứ như vậy, tiến trình văn học được vận hành dựa trên mối quan hệ biện chứng
giữa quá trình phá vỡ các điển mẫu đã trở nên cũ kĩ với quá trình sáng tạo ra các điển
mẫu mới mẻ. Cũng chính vì thế, tiến trình văn học thường có nhiều vòng đời và phân
kì lịch sử là quy luật vận động nội tại của nó. Nghiên cứu văn học đã tìm cách khái
quát quy luật này từ nhiều góc độ, nhiều bình diện khác nhau, tạo nên nhiều cách phân
chia tiến trình văn học khác nhau:
– Quan niệm văn học là một phương diện của lịch sử xã hội nên dựa vào cột
mốc lịch sử: phương pháp sáng tác, …
– Quan niệm văn học có lịch sử riêng nên dựa vào các phạm trù nghệ thuật để
định kì lịch sử văn học: khuynh hướng sáng tác, trào lưu văn học, thể loại, phong cách,

Mặc dù tiến trình văn học vận hành theo quy luật kế thừa và sáng tạo, nhưng
cũng nên lưu ý đến tính độc lập tương đối của văn học. Không giống như các thành
tựu khoa học, cái ra đời sau bằng sự ưu việt của mình đã xóa sổ cái trước đó. Trong
nghệ thuật, cái ra đời sau, đôi khi, không vượt qua được cái ra đời trước đó, hoặc nếu
có kế thừa và đổi mới so với cái trước đó thì vẫn không làm mất đi giá trị và ý nghĩa
của chúng. Ví như người ta sẽ không vì có V. Hugo mà quên Corneill, không vì có
Balzac mà phủ định đóng góp của Lamartine, …
Tính chất độc lập tương đối của các lĩnh vực đời sống, trong đó có văn nghệ,
tạo nên quy luật phát triển không đồng đều của văn nghệ. Nội dung các quy luật này là
các thời kì nở rộ của văn nghệ có khi không đi đôi với sự phồn vinh của cơ sở kinh tế,
có thời văn nghệ phát triển nhanh, có thời chậm. Có những thời kì trình độ phát triển
sản xuất và xã hội còn thấp, nhưng văn nghệ lại phồn vinh, để lại những giá trị bất hủ,
mẫu mực cho loài người. Trái lại, có thời kì trình độ phát triển sản xuất và xã hội cao
hơn, nhưng văn nghệ không có sự phồn vinh tương ứng. Theo dõi các trào lưu văn học

trên thế giới, chúng ta cũng nhận thấy, có những trào lưu phát triển là do có sự phát
triển trong đời sống kinh tế xã hội, như chủ nghĩa cổ điển, nhưng cũng có trào lưu phát
triển do đời sống của đại đa số nhân dân lao động gặp khốn khó, của cải vật chất chỉ
tập trung vào tay tư sản, gây nên mâu thuẫn gay gắt và đấu tranh giai cấp mạnh mẽ.
Bên cạnh đó, các trào lưu văn học từ thế kỉ XVII đến nửa đầu thế kỉ thứ XIX
còn xuất hiện một cách tuần tự. Cứ khoảng một thế kỉ sẽ có một trào lưu xuất hiện
(chủ nghĩa cổ điển – thế kỉ XVII, chủ nghĩa lãng mạn – thế kỉ XVIII, chủ nghĩa hiện
-5-

thực – thế kỉ XIX). Nhưng bắt đầu từ nửa sau thế kỉ XIX, các trào lưu liên tiếp ra đời,
thậm chí nhiều trào lưu ra đời cùng lúc (chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa trừu tượng, chủ
nghĩa siêu thực, chủ nghĩa vị lai, chủ nghĩa đa đa, chủ nghĩa hiện sinh). Chính vì vậy,
tuổi đời của mỗi trào lưu cũng ngắn đi. Nếu trước đây mỗi trào lưu chiếm trọn một thế
kỉ, thì các trào lưu thuộc chủ nghĩa hiện đại có khi chỉ kéo dài trong một thập kỉ mà
thôi. Tình hình đó cũng tương tự vào thế kỉ XX.
1.3. Một số thuật ngữ cơ bản của môn tiến trình văn học
1.3.1. Khái niệm
1.3.1.1. Kiểu sáng tác (phương thức sáng tác)
Kiểu sáng tác là nguyên tắc tư duy nghệ thuật khảo sát mối quan hệ giữa lí
tưởng và thực tại, giữa chủ quan và khách quan. Trong đó, những tác phẩm nào thiên
về phản ánh thực tại trên tinh thần khách quan, được gọi là sáng tác theo kiểu sáng tác
hiện thực (tái hiện). Ngược lại, những tác phẩm nào thiên về biểu hiện thế giới chủ
quan thì được gọi là sáng tác theo kiểu sáng tác lãng mạn (tái tạo). Do không phụ
thuộc vào thế giới quan, không đề cập đến nội dung cụ thể của lí tưởng thẩm mĩ – xã
hội và hệ tư tưởng nào nên hai kiểu sáng tác này tồn tại xuyên suốt trong lịch sử văn
học. Người ta có thể tìm thấy kiểu sáng tác lãng mạn (tái tạo) trong thần thoại, chủ
nghĩa tình cảm, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa biểu hiện, chủ nghĩa siêu thực, … cũng
như có thể tìm thấy kiểu sáng tác hiện thực (tái hiện) trong chủ nghĩa cổ điển, chủ
nghĩa hiện thực phê phán, chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, …

Không cần thiết và cũng không nên so sánh chất lượng hai kiểu sáng tác vì mỗi kiểu
sáng tác có vẻ đẹp riêng và thường xâm nhập, hòa quyện lẫn nhau trong từng nhà văn,
từng tác phẩm cụ thể.
1.3.1.2. Trào lưu văn học
Trào lưu văn học là sản phẩm của một giai đoạn lịch sử xã hội và hệ tư tưởng
nhất định. Nó bao gồm một tập hợp các nhà văn có cùng ý hướng sáng tác, gây nên
một phong trào rầm rộ, hoạt động dưới một tổ chức, lí luận – phê bình có cương lĩnh
riêng, có nhà xuất bản riêng để xuất bản các tác phẩm, có cơ quan ngôn luận cùng
những hoạt động tương tác với độc giả của mình và thường được dẫn dắt bởi một ngọn
cờ đầu, là một đại biểu xuất sắc của các nhà văn đó.
1.3.1.3. Phong cách sáng tác
Phong cách sáng tác là những đặc điểm sáng tác độc đáo, là dấu hiệu trưởng
thành của các nhà văn ưu tú. Chúng được thể hiện ở bất cứ yếu tố nào của tác phẩm, từ
-6-

nội dung (cách chọn đề tài, cảm hứng chủ đạo, …) đến hình thức (cách xây dựng nhân
vật ) và thể loại, … Phong cách sáng tác được tạo nên bởi đời sống tinh thần của nhà
văn, bao gồm khí chất, tâm lí, hứng thú, đặc biệt do cá tính quyết định. Thế giới quan
chỉ đóng vai trò cảnh giới nên khi thế giới quan thay đổi, phong cách vẫn giữ những
nét kế thừa.
1.3.1.4. Phương pháp sáng tác
Phương pháp sáng tác là một khái niệm xuất hiện vào những năm 20 của thế kỉ
XX, do những nhà lí luận văn học Soviet khởi xướng.
Phương pháp sáng tác được định nghĩa là “hệ thống hữu cơ những nguyên tắc
tư tưởng nghệ thuật được xác định bởi một thế giới quan trong những điều kiện lịch sử
– xã hội nhất định, dùng để phản ánh (lựa chọn, khái quát, bình giá,…) thế giới bằng
hình tượng”. 1
Hiện nay, xung quanh khái niệm phương pháp sáng tác còn có nhiều ý kiến trái
ngược nhau. Một số nhà nghiên cứu không chấp nhận khái niệm này, như Phạm Vĩnh

Cư (“Suy nghĩ và kiến nghị xung quanh vấn đề đổi mới lý luận văn học”, Nghiên cứu
văn học, 12/2004, tr.21), Phong Lê (Nhận thức lại vị trí của chủ nghĩa hiện thực và
vấn đề chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trong Văn học trên hành trình thế kỷ XX,
tr.419), Nguyễn Văn Dân (Vì một nền lý luận phê bình văn học chất lượng cao, Khoa
học xã hội, 2005, tr.61), … Thậm chí, Trần Đình Sử (Cần đưa khái niệm phương pháp
sáng tác ra khỏi lý luận phê bình trong văn học hiện nay, tham luận hội thảo Nâng cao
chất lượng, hiệu quả phê bình văn học, 2012) còn yêu cầu nhận thức lại khái niệm
phương pháp sáng tác, vốn ra đời cùng với phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ
nghĩa, vì cho rằng khái niệm này không có hạt nhân khoa học vững chắc. Tuy nhiên,
trong các giáo trình lí luận văn học hiện hành, phương pháp sáng tác vẫn được sử
dụng. Trong khi chờ đợi sự đổi mới chính thức, đồng bộ trong các giáo trình đại học,
người học vẫn có thể sử dụng thuật ngữ này, thậm chí vẫn cần tìm hiểu thuật ngữ này
ngay cả khi nó không còn được dùng nữa.
1.3.2. Phân biệt khái niệm
Do ra đời muộn hơn một số khái niệm khác nên đôi khi phương pháp sáng tác bị
cho là tên gọi mới của những khái niệm cũ, có nội dung không khác gì so với các khái

1

Phương Lựu, La Khắc Hòa, Trần Mạnh Tiến (2006), Lí luận văn học, tập 3, Tiến trình văn học,

NXB. Đại học Sư phạm, Hà Nội, tr.76

-7-

niệm đã có trước đây. Để hiểu rõ hơn về khái niệm này, cần so sánh nó với các khái
niệm đã ra đời trước đó.
1.3.2.1. Phương pháp sáng tác với trào lưu văn học
* Điểm giống: cùng được xác định bởi một thế giới quan trong những điều kiện

lịch sử-xã hội nhất định
* Khác:
Phương pháp sáng tác

Trào lưu văTrào lưu văn học

– Là những nguyên tắc phản ánh

– Là một phong trào hoàn chỉnh: sáng tác,
tổ chức, lí luận, có hoạt động riêng, có
nhà xuất bản, đối tượng khách thính
riêng,…

– Là đối tượng của lí luận văn học

– Là đối tượng của lịch sử văn học

– Ra đời sớm hơn, khi có sáng tác

– Ra đời muộn hơn, khi có phong trào
sáng tác rầm rộ, được chỉ đạo bởi một tổ
chức có cương lĩnh sắc bén

– Lí luận được đúc kết theo cách nhìn – Cương lĩnh lí luận là những yêu cầu,
của các nhà lí luận thế kỉ XX

kinh nghiệm sáng tác được tổng kết theo
cách nhìn đương thời.

1.3.2.2. Phương pháp sáng tác và kiểu sáng tác

 Giống: đều là nguyên tắc phản ánh
 Khác:
Phương pháp sáng tác

Kiểu sáng tác

– Phụ thuộc vào thế giới quan

– Không phụ thuộc vào thế giới quan

– Là nguyên tắc tư tưởng – nghệ thuật

– Là nguyên tắc tư duy nghệ thuật vì
không đề cập đến nội dung cụ thể của lí
tưởng thẩm mĩ-xã hội và hệ tư tưởng nào
mà chủ yếu khảo sát mối quan hệ giữa:
lí tưởng – thực tại
chủ quan – khách quan
KST Lãng mạn – KST Hiện thực
(Tái tạo)

-8-

(Tái hiện)

Không nên so sánh chất lượng hai

kiểu sáng tác
– Khái niệm hẹp hơn

– Khái niệm rộng hơn vì không đặt yêu
cầu về thế giới quan, điều kiện lịch sử:
+ KST lãng mạn (tái tạo): thần
thoại, chủ nghĩa tình cảm, chủ nghĩa lãng
mạn tích cực/ tiêu cực/ cách mạng
+ KST hiện thực (tái hiện): CNHT
cổ điển, CNHT phê phán, CNHT XHCN,
CNHT thời phong kiến mạt kì phương
Đông, chủ nghĩa tự nhiên,…

1.3.2.3. Phương pháp sáng tác và phong cách
Phương pháp chung và phong cách dễ phân biệt, không cần so sánh. Có sự khác
nhau cơ bản giữa phương pháp riêng và phong cách.
Phương pháp riêng

Phong cách

– Là những đặc điểm sáng tác mờ nhạt, – Là những đặc điểm sáng tác độc đáo, tạo
chưa đủ tạo nên phong cách cho nhà văn nên phong cách cho nhà văn
– Thuộc sở hữu của bất kì nhà văn nào

– Là dấu hiệu trưởng thành của các nhà
văn ưu tú

– Được thể hiện tập trung ở thế giới – Được thể hiện ở bất cứ yếu tố nào trong
quan, lí tưởng thẩm mĩ-xã hội, trình độ tác phẩm:
tư tưởng

+ Nội dung: cách chọn đề tài, cảm

hứng chủ đạo,…
+ Hình thức: cách xây dựng nhân

vật (chính/phản diện), thể loại,…
– Khảo sát để đáng giá chất lượng lí – Khảo sát để đánh giá cái hay, cái độc
tưởng

đáo của nhà văn

– Được hình thành quyết định do thế – Do đời sống tinh thần (khí chất, tâm lí,
giới quan

hứng thú,…), đặc biệt do cá tính quyết
định, thế giới quan chỉ đóng vai trò cảnh
giới

– Thế giới quan thay đổi dẫn đến – Thế giới quan thay đổi, phong cách vẫn
phương pháp riêng thay đổi

giữ những nét kế thừa
-9-

– Phương pháp riêng có một nguyên tắc – Đối tượng khác nhau tác động đến
nhất trí trong việc phản ánh với bất kì phong cách khác nhau:
đối rượng mô tả nào

+ Cao cả, bi hùng: màu sắc trữ tình

+ Thấp hèn, xấu xa, hài hước, màu
sắc châm biếm
Đề tài mở rộng giúp phong cách trở nên
đa dạng

– Mối quan hệ giữa phương pháp riêng- – Mối quan hệ giữa phong cách – phong
phương pháp chung là mối quan hệ loại- cách chung không phải là mối quan hệ
thể

loại – thể

– Không nên xa rời phương pháp chung

– Càng đa dạng càng tốt

– 10 –

Chương 2
CHỦ NGHĨA CỔ ĐIỂN

Xem thêm: Giải Vở Bài Tập Tiếng Việt Lớp 2 Tập 1 Trang 6 : Tập Làm Văn

2.1. Khái niệm
Chủ nghĩa cổ điển (Classicism) là khái niệm ra đời ở thế kỉ XVIII, dùng để chỉ
trào lưu văn học ra đời ở Pháp vào thế kỉ XVII. Thuật ngữ Classicism bắt nguồn từ
việc Aristote phân loại, phân hạng các tác phẩm văn học để giảng dạy trong nhà
trường (class), thường là những sách hay, từ đó, hình thành nên quan niệm, những tác
phẩm được phân loại là những tác phẩm mẫu mực.
Trong tiếng Việt, hiểu theo nghĩa chiết tự, cổ là xưa, điển là sách xưa, cổ điển là
những tác phẩm ưu tú, vượt qua thử thách của thời gian.
2.2. Cơ sở hình thành
2.2.1. Cơ sở xã hội
Chủ nghĩa cổ điển Pháp hình thành trên cơ sở nhà nước phong kiến tập trung
trong thế quân bình đối lập giữa hai giai cấp phong kiến và tư sản. Trên đà phát triển
tương đối mạnh mẽ, giai cấp tư sản thế kỉ XVII ở Pháp đòi hỏi một thị trường thống
nhất nên mâu thuẫn trước hết với giai cấp phong kiến – cát cứ, chứ chưa phải với toàn
bộ chế độ phong kiến nói chung. Đồng thời, để mưu cầu sự thống nhất đó, giai cấp tư
sản phải dựa vào giai cấp phong kiến – tập quyền ở trung ương, vốn cũng muốn dựa
vào giai cấp tư sản để thôn tính phong kiến – cát cứ. Tình hình này dẫn đến sự tồn tại
của một chế độ chính trị mà giới cầm quyền bao gồm cả giai cấp phong kiến và tư sản.
Chế độ chính trị này đã tạo nên tính nước đôi cho văn học, khiến chủ nghĩa cổ điển
phản ánh ý thức hệ tư sản nhưng lại mang màu sắc phong kiến.
2.2.2. Cơ sở tư tưởng
Chủ nghĩa cổ điển có cơ sở tư tưởng là chủ nghĩa Duy lí của Decartes, một học
thuyết tôn sùng lí trí của con người. Decartes cho rằng: “Tôi hoài nghi, nghĩa là tôi tư
duy, tôi tư duy, nghĩa là tôi tồn tại”. Ông yêu cầu đứng trước một vấn đề, con người
nên biết đặt câu hỏi, thể hiện thái độ hoài nghi khoa học, có như vậy, con người mới
nhận thức được thế giới. Học thuyết này có một ý nghĩa rất tiến bộ với tư duy đương
thời, thể hiện vai trò tích cực của con người trong việc nhận thức thế giới, biến thế giới
từ bất khả tri theo quan niệm trước đây thành thế giới khả tri.
– 11 –

Tuy nhiên, xét về mặt nào đó, học thuyết này cũng thể hiện sự thỏa hiệp về thế
giới quan và nhân sinh quan của hai giai cấp quý tộc và tư sản. Với những vật vô tri,
tuy không tư duy nhưng vẫn tồn tại, công thức của Decartes trở nên không bao quát
hết được thực tế khách quan. Decartes còn cho rằng lí trí là lương tri, lương năng, tồn
tại sẵn có trong mỗi người và giữa mọi người là như nhau. Ông tuyệt đối hóa vai trò
của lí trí mà xem nhẹ vai trò của tình cảm, cảm xúc. Điều này ảnh hưởng không nhỏ
đến quan niệm về văn chương, nhất là đến vai trò sáng tạo và sức tưởng tượng của
người nghệ sĩ. Decartes cũng thừa nhận sự tồn tại của quỷ thần, khiến học thuyết của
ông chưa thật triệt để, trở thành một thứ triết học nhị nguyên, rốt cuộc là duy tâm.
2.3. Nguyên tắc sáng tác
2.3.1. Đề cao lí tính
Vì thể hiện lòng khâm phục và yêu mến lí trí vạn năng của con người, luôn
dành sự ưu tiên cho vấn đề tư tưởng nên văn học cổ điển luôn xảy ra mâu thuẫn không
thể điều hòa được giữa lí trí và dục vọng, giữa tình cảm cá nhân và nhiệm vụ chung
cao cả. Mâu thuẫn đó thường được giải quyết theo hướng buộc cá nhân phải phục tùng
tập thể, tình cảm phải được hi sinh cho những quyết định lí tính. Từ đó, những nhân
vật nào hành động theo lí trí và theo tiêu chuẩn đạo đức phong kiến thì được ngợi ca,
cho dù đôi khi vinh quang ấy phải trả bằng một cái giá rất đắt.
Le cid, tác phẩm đầu tiên đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa cổ điển, đã phản ánh
tính chất và nhu cầu của nhà nước phong kiến tập quyền thế kỷ XVII, chịu ảnh hưởng
sâu sắc bởi chủ nghĩa duy lý của Descartes. Các nhân vật trung tâm trong tác phẩm
mang tính lý tưởng, là những con người luôn đặt lý trí lên trên tình cảm, chiến thắng
đam mê, coi nhẹ lợi ích cá nhân, phục tùng cho lợi ích, danh dự quốc gia và của dòng
dõi. Đối với Don Rodrige, bi kịch lớn nhất của chàng là phải lựa chọn một trong hai
con đường, giữa lý trí và tình cảm, giữa việc trả thù cho cha và tình yêu sâu sắc đối với
Simen, chàng không thể vì tình yêu của cá nhân mà không giết cha nàng để rửa nhục
cho cha mình, lấy lại danh dự cho cả một cuộc đời, một gia tộc anh hùng:
“Hận lòng đôi ngả đấu tranh
Nửa là danh dự, nửa tình khó theo

Vẹn thù cha, mất người yêu,
Bên thêm dũng khí, bên sao ngập ngừng?
Não nề đứng giữa hai đường
– 12 –

Sống đời ô nhục? Phũ phàng tơ duyên?
Trời cao, thấu nỗi niềm riêng?
Thù cha nỡ gác? Cha nàng giết sao?
Giết chết cha của người mình yêu thương để báo thù cho cha ruột của mình,
Rodrige đã tự tay cắt đứt mối duyên tình của chàng và Simen, cuộc hôn nhân tưởng
chừng sắp được đơm hoa phút chốc bỗng trở nên vô vọng. Vì rằng, theo đạo làm con,
Simen không thể lấy người đã giết chết cha ruột của mình làm chồng, hơn thế, để làm
tròn bổn phận người con, chính nàng phải đòi lại công bằng cho cha, bằng việc tố cáo
Rodrige. Tuy lý trí bảo nàng phải trả thù cho cha, đặt lợi ích của gia tộc lên hàng đầu,
nhưng nàng không thể thù ghét người mình yêu mà lại càng yêu chàng hơn vì vẻ đẹp
của một đấng anh hùng dám đương đầu với thử thách để làm tròn nghĩa vụ một người
con hiếu thảo, một vị trung thần, đem danh dự và lợi ích về cho gia tộc, cho đất nước.
Trước nỗi đau cha mình bị giết hại bởi người mình yêu thương, nàng không thể vì tình
yêu sâu sắc dành cho Rodrige mà quên đi bổn phận phải báo thù cho cha:
“Tình say đắm, chống lại lòng căm phẫn
Trong kẻ thù bắt gặp kẻ ta yêu!
Ta cảm giác giờ đây, mặc căm giận dâng trào.
Rodrige với phụ thân ta, trong trái tim này, vẫn còn giao chiến…”
Dù sáng suốt nhận ra con đường mình lựa chọn nhưng con tim không khỏi đau
đớn, xót xa:
“Khóc, khóc nữa! Mắt ta biến thành suối lệ đầy vơi!
Một nửa cuộc đời ta đã đẩy nửa kia xuống mộ!
Buộc ta phải báo thù sau điều tai họa đó,
Vì nửa mất rồi giết nốt nửa còn đây!”

Mâu thuẫn giữa tình cảm riêng tư và trách nhiệm của nàng như không còn cách
nào khác để dung hòa, chỉ có thể là tiếng khóc.
Tuy nhiên, sau những chiến công Rodrige đã lập nên và được tôn là Le cid, nhà
vua Don Fernan đã tuyên bố cho Simen một năm để khô đi dòng lệ khóc cha và sau đó
– 13 –

sẽ phải lấy người anh hùng của đất nước. Chỉ lúc này, mâu thuẫn ấy mới điều hòa
được nhưng vẫn trên cơ sở cái riêng phục tùng cái chung.
Trong vở kịch Horace, cả hai nhân vật Horace và Curiace đều đã dẹp bỏ những
tình cảm cá nhân để phụng sự cho tổ quốc, sẵn sàng hi sinh tất cả, chỉ mong có thể
đem được vinh quang về cho đất nước. Đặc biệt, Horace còn cho rằng:
“Vì tất cả mọi người mà chiến đấu chống một kẻ thù
Và đưa thân mình ra để đánh lại một người không quen biết,
Đó chỉ là một đức tính tầm thường
Hàng ngàn người đã làm như thế, hàng ngàn người sẽ có thể làm như thế
Chết vì đất nước là một số phận vinh quang
Và bao nhiêu người sẽ đua nhau để nhận một cái chết đẹp như thế;
Nhưng vì nước nhà mà giết chết kẻ thân thích,
Quyết tâm đánh lại một nửa bản thân mình,
Tấn công vào một nơi mà người bảo vệ
Lại là anh em với vợ mình và là tình nhân của chị em mình.
Và, cắt đứt tất cả những mối liên hệ, vì tổ quốc cầm vũ khí,
Chống lại người cùng một dòng máu mà người ta sẵn sàng lấy cả cuộc đời
để đánh đổi,
Một đức tính như thế chỉ chúng ta mới có;
Không mấy người đạt được đến đó,
Và cũng ít người có đủ dũng cảm
Để có một tham vọng giành được một vinh quang lớn lao như vậy.”
Tuy cho rằng sự cương quyết của Horace có phần nào man rợ nhưng Curiace

vẫn khẳng định “Trước khi thuộc về em, ta thuộc về đất mẹ”.
Ngoài ra, thông qua nhân vật Horace cha, Corneille cũng đã thể hiện được tính
duy lý rất rõ trong tác phẩm của mình. Ông như một hiện thân của sự trung thành
không bờ bến đối với nhà nước, với đức vua. Ở hồi III của tác phẩm, khi nghe tin đứa
con thứ ba của mình bỏ chạy, ông đã nguyền rủa đứa con của mình không thương tiếc:
“Hãy khóc thằng kia, khóc cái nhục nghìn thu
In lên trán ta sau cái chạy trốn đáng căm thù!
Khóc cho giống nòi thanh danh nhơ nhuốc,
Khóc cái nhục ngàn đời trùm lên tên Horace.”

– 14 –

Và ở cuối tác phẩm, khi đứng trước mặt vua Tulle, ông cũng không bày tỏ nỗi
thương xót nào dành cho đứa con gái tội lỗi đã dám nguyền rủa, phỉ báng La Mã. Lúc
này, ông bảo vệ Horace như đang bảo vệ một người anh hùng, một kẻ có công lớn đối
với tổ quốc mến yêu:
“Mong bệ ha đừng thương xót gì thân già này:
Trong ngày hôm nay, La Mã đã từng thấy tôi là cha của bốn đứa con;
Cũng trong ngày hôm nay ba đứa đã chết vì cuộc tranh chấp của nó
Tôi chỉ còn lại một đứa, ngày hãy giữ lấy nó cho đất nước,
Đừng tước mất một chỗ dựa vững chắc như vậy của những bức thành kia.”
Tương tự như vậy, trong vở Angdromaque Racine cũng đã xây dựng hình tượng
nhân vật Angdromaque có sự hài hòa cao độ giữa lí trí và tình cảm, giữa nghĩa vụ cao
cả và trách nhiệm cá nhân. Chồng bại trận, bản thân bị bắt và uy hiếp bởi kẻ thù của
mình, tính mạng con trai đang bị đe dọa. Mâu thuẫn giữa việc bảo toàn phẩm tiết với
chồng và sự phản bội để cứu được con buộc nàng phải lựa chọn. Nàng không thể để
dòng máu cuối cùng của tổ tiên hy sinh cùng mình được, vì vậy, nàng quyết hy sinh tất
cả sự kêu hãnh, lòng tự tôn của chính mình mà quỳ gối trước Hermione (vợ hứa hôn
của vua Pyrrhus) để cầu xin cứu con nàng được sống, dùng hết mọi lời cầu xin Pyrrhus

tha cho con nàng. Nhưng mọi sự van xin đều bất thành. Thế là bằng lí trí sáng suốt,
Angdromaque quyết định nhận lời làm lễ thành hôn cùng Pyrrhus, để sau khi được nhà
vua tuyên bố bảo vệ và yêu thương con nàng như con ruột, nàng sẽ tự sát ngay trong lễ
cưới để bảo vệ lòng thủy chung với chồng, với đất nước. Nhưng mọi việc diễn ra ngoài
dự tính khi nhà vua bị hạ sát bởi Oreste (người tình của Hermione). Sau cái chết của
vua Pyrrhus, Angdromaque được nhân dân ủng hộ vì đã giữ lời hứa với vua Pyrrhus.
Trong vở kịch, duy chỉ có mình nàng là có kết thúc có hậu, các nhân vật còn lại đều có
kết cục bi thảm.
Ngược lại, vua Pyrrhus muốn lấy cho kỳ được nàng Angdromaque và ra sức vệ
mẹ con Angdromaque, vì dục vọng cá nhân mà quên đi đất nước, khiến lòng dân căm
phẫn; Hermione vì sự đố kỵ, ghen tuông mà quên mất địa vị của mình là một công
chúa cao quý, lại bi lụy, tranh giành, tàn nhẫn và quên cả việc phải giúp vua trao trả
đứa bé; Orester cũng vì muốn có được nàng Hermione mà quên đi nhiệm vụ làm sứ
giả thuyết giảng cho vua giao đứa trẻ, bất chấp phản động, giết vua…Tất cả họ đều bị
tình cảm chi phối và hành động ích kỷ chỉ vì quyền lợi của bản thân mà quên lãng
nhiệm vụ cao cả của mình. Tất cả họ đều có chung một kết cục thê thảm, Pyrrhus bị
– 15 –

giết chết, Hermione tự sát bên xác chồng chưa cưới, hay Orester điên loạn. Chính lúc
này đây nhà soạn kịch Racine đã gióng lên hồi chuông thức tỉnh cho những kẻ bị tình
cảm che mờ lý trí và đề cao lý tính.
Điều này cũng thấy ở nhân vật Agipine và Neron trong một bi kịch nổi tiếng
khác của Racine là Britannicus. Như vậy, cũng trên tinh thần đề cao lí tính, nhưng
Racine thường làm theo cách ngược lại với Corneill. Nếu trong bi kịch của Corneill,
các nhân vật anh hùng, hành động theo đạo đức phong kiến được vinh danh thì trong
bi kịch của Racine, những nhân vật nô lệ cho những dục vọng thấp hèn sẽ bị phê phán.
Điều này là do Corneill sống vào thời kì lập quốc, các vương triều được xây dựng rất
cần những anh hùng, những con người sống vì cộng đồng, vì lí tưởng, những ông vua
còn anh minh, sáng suốt, hành động vì cái chung. Còn Racine, do sống vào giai đoạn

nhà nước phong kiến đã đi vào ổn định, dễ có tâm lí chủ quan và hưởng thụ, nên giới
cầm quyền đã có những dấu hiệu tha hóa, sa đọa, triều bắt đầu mục ruỗng.
Bên cạnh Corneill và Racine, Moliere cũng là nhà viết kịch nổi tiếng của chủ
nghĩa cổ điển, nhưng ông không sáng tác bi kịch mà lại sáng tác hài kịch. Ông quan
niệm: “Nếu tác dụng của hài kịch là sửa chữa các tính xấu của con người thì tôi tin
rằng không phải chừa ra một loạt tính xấu nào cả. Những bài học hay nhất của một
bài chân lí trang nghiêm không có hiệu quả bằng những nét châm biếm của một bài
thơ trào phúng mô tả những thói xấu của con người, đó là cách tuyệt diệu để giáo dục
họ”. Chính suy nghĩ ấy đã khiến Moliere xây dựng những nhân vật có đầy đủ mọi tính
xấu, một Harpagon (Lão hà tiện) keo kiệt, nô lệ của đồng tiền, một Juordin (Trưởng
giả học làm sang) háo danh, tìm mọi cách quý tộc hóa bản thân một cách mù quáng,
nực cười, một Don Juan (Don Juan) sở khanh, chuyên lừa gạt phụ nữ, … Những nhân
vật này được nêu lên như những tấm gương xấu để thiên hạ cười chê. Đây chính là
cách thức mà Moliere đề cao lí tính, trong đó, những ai không hành động theo lí trí
sáng suốt mà làm nô lệ cho những dục vọng thấp hèn, thì sẽ bị cười chê, sẽ trở thành
những trò hề lố bịch dưới mắt mọi người.
Trong số những nhà văn cổ điển chủ nghĩa, không thể không nhắc đến La
Fontaine. Ông viết nhiều thể loại nhưng nổi tiếng với thể loại ngụ ngôn. Những tác
phẩm như Người tiều phu và thần chết, Con cáo và chùm nho, Dịch hạch, Rùa và thỏ,
… chính là những câu chuyện dí dỏm, chứa đựng những sự thật ở đời, những bài học
đạo lí sâu sắc, nhằm giáo dục con người sống lành mạnh, sáng suốt, có trách nhiệm.

– 16 –

Khác với văn học Phục hưng, sự phân chia tính cách thành cái cá nhân và cái xã
hội ở đây mang tính trừu tượng, được áp đặt từ bên ngoài chứ không phải xuất phát từ
bên trong bản thân nhân vật. Các nhà cổ điển quan niệm, sự vật muốn thỏa mãn được
lí trí phải đạt được các tiêu chuẩn của chân lí: tuyệt đối, vĩnh hằng, phổ biến. Chính vì
vậy, trong việc xây dựng nhân vật, họ thường phóng đại, làm nổi bật một nét tính cách

nào mà họ cho là bản chất nhất, gạt bỏ tất cả những gì thuộc cá tính hay có sắc thái tế
nhị khiến tính cách của nhân vật mang tính đồng nhất nghiêm ngặt (như Le cid và
Horace anh hùng, Angdromaque thủy chung, Harpagon hà tiện, Juordin hám danh, …).
Điều này mang lại ý nghĩa khái quát cao độ cho tính cách nhưng lại tước mất tính cụ
thể của nó, khiến tính cách trở thành một ý niệm trừu tượng về cá tính hơn là một cá
tính sinh động. Hơn nữa, do không được miêu tả trong quá trình hình thành và phát
triển nên tính cách ở đây mang tính chất tĩnh, không có sự vận động và thay đổi.
2.3.2. Mô phỏng tự nhiên
Nguyên tắc mô phỏng tự nhiên có từ thời văn học cổ Hy – La, được các nhà văn
học cổ điển trân trọng và phát triển. Theo họ, tự nhiên sẽ làm thỏa mãn lí trí con người
và đảm bảo giá trị nghệ thuật của văn học, vì vậy văn học cần xác định đối tượng của
nó là tự nhiên chứ không phải là những gì trí tưởng tượng hoang đường bày đặt ra.
Boileau quan niệm cái đẹp gắn với cái thật: “Chỉ có thật mới đẹp, chỉ có thật mới đáng
yêu”, “Tự nhiên là chân thực, người thực có thể thể nghiệm được”1. Từ đó, ông kêu
gọi: “Hãy để cho tự nhiên trở thành đối tượng nghiên cứu duy nhất” 2. La Fontaine
nhấn mạnh: “Không lúc nào được rời khỏi tự nhiên nửa bước”3. Tự nhiên không chỉ
là thiên nhiên mà là thế giới khách quan nói chung, gồm cả thiên nhiên và xã hội. Vì
văn học cổ điển đề cao cái tự nhiên, cái thật nên đã tạo nên một nền văn học vô thần.
Chúng ta có thể nhận thấy những sự thật của xã hội thông qua những việc tranh giành
quyền lực chính trị và địa vị xã hội, những sự thật của tâm hồn như việc lựa chọn giữa
trách nhiệm chung với yêu cầu cá nhân, những nét tính cách bản chất của con người,
… Lấy dục vọng mãnh liệt và xuất phát từ tự nhiên của con người làm nồng cốt,
Racine đã vẽ ra cái hiện thực vua chúa của thời ông. Nếu Corneille có xu hướng tìm
cái xa lạ, vươn lên lý tưởng, thì Racine hiện thực hơn trong đề tài và cách viết. Trong
các tác phẩm của Corneille, vua chúa mang tài đức siêu cao thì ngòi bút của Racine đã
1

Tiến trình văn học, tr.125

2

Sđd, tr.125
Sđd, tr.125

3

– 17 –

để họ rơi xuống cái phàm tục “rất người”. Ông hoàng, bà chúa trong bi kịch của
Racine là những kẻ tầm thường với những dục vọng thấp hèn, ích kỷ. Họ rất xa với cái
nhân đạo, cao cả họ thường khoe khoang. Một đời sống hài hòa nhân đạo, những lý
tưởng cao cả khó mà có thể thấy ở thế kỷ XVII khi chế độ quân chủ chuyên chế đang
bước vào giai đoạn suy tàn của nó. Thế nên, Racine đã phô bày bi kịch của những ông
hoàng hư hỏng. Đó là những kẻ độc đáo trên ngai vàng, những bạo chúa lạm dụng uy
lực của mình để thõa mãn những thèm khát tầm thường, thõa mãn những nhục dục
thấp hèn của chúng mà nạn nhân là những người phụ nữ. Như trong tác phẩm
Angdromaque, Racine tập trung sự chú ý vào những vấn đề về con người, nhất là khai
thác nội tâm nhân vật để phô bày tất cả lẽ tự nhiên và những dục vọng tầm thường ấy.
Đặc biệt, trong các sáng tác của Moliere, tính tự nhiên đã được phát huy cao độ khi
nhà văn đề cập đến những thói hư, tật xấu, đến quá trình tư sản hóa của xã hội, …
Tuy nhiên, tự nhiên ở đây không có nghĩa là toàn bộ đời sống tự nhiên mà là
một tự nhiên đã được lí trí gạn lọc, bị chi phối bởi nguyên tắc đề cao lí tính. Nó bao
gồm những đặc điểm:
– Chủ nghĩa cổ điển chủ trương không đi sâu vào thế giới tình cảm của con
người vì tình cảm cùng những rung động cảm xúc sẽ khiến cho lí trí sáng suốt của con
người bị ảnh hưởng. Theo đó, thế giới riêng tư của con người cùng những sắc thái,
những cung bậc đa dạng và tế vi thường bị gạt ra ngoài. Do đó, con người trong văn
học cổ điển là con người phi ngã, hành động theo lí trí và vì nhiệm vụ xã hội trừu
tượng. Các tác giả cũng ít khi trực tiếp nói lên những cảm nghĩ, những vui buồn, say

mê riêng của mình mà thường nép sau nhân vật, nếu có xuất đầu lộ diện cũng rất dè
dặt vì họ cho rằng tình cảm cá nhân chỉ có ý nghĩa bộ phận đơn độc, ngẫu nhiên, trữ
tình là yếu tố không đáng kể. Tuy nhiên, do tập trung xây dựng những xung đột, đặc
biệt là xung đột nội tâm, giữa lí trí và dục vọng, ham mê nên những biểu hiện của “cái
tôi” ít nhiều đã được đề cập, tạo nên những điển hình tâm lí. Don Rodrige và Simen là
những nhân vật mang hai mặt đối lập nhau trong con người của họ. Một mặt, đó là
những đầu óc tỉnh táo, sáng suốt, có ý thức sâu về nghĩa vụ của bản thân (bảo vệ danh
dự của gia đình). Mặt khác, đó là những trái tim nồng cháy, thiết tha, son sắt (tình yêu
cá nhân trong hạnh phúc lứa đôi). Cả hai mặt đều mạnh mẽ, rạch ròi, phân minh,
nhưng lại phát triển ngược chiều, và chính vì thế mà phải loại bỏ lẫn nhau trong mỗi
tính cách. Tình cảm dù mặn mà, dù chính đáng, vẫn không làm lu mờ được ý thức về
nghĩa vụ mà phải chịu khuất phục trước lí trí. Ý thức về nghĩa vụ, ý thức về danh dự là
– 18 –

nền tảng, là điểm xuất phát của mọi tình cảm cao đẹp, kể cả tình yêu. Rodrige dù yêu
Simen say đắm, nồng nàn đến mấy, vẫn không thể từ bỏ nhiệm vụ trả thù cho cha, rửa
nhục cho thanh danh của dòng họ. Giết chết cha của Simen, chàng biết rõ tính chất hệ
trọng của việc mình làm và bất chấp tất cả, bất chấp cả sự đổ vỡ của tình yêu, cả trái
tim tan nát của người tình.
“Chết, không thù trả nợ đền!
Chết, mà hoen ố tiếng thơm lẫy lừng!
Chết, mà cả nước coi thường
Rằng không bảo vệ vuông tròn thanh danh?
Tình kia chung thủy khôn lành
Duyên kia trân trọng cũng đành cắt ngang!
Trước sau đành mất Simen,
Gươm ơi! Giữ lấy vẹn tròn hương thơm!
Hay:
“ , phải! Tâm hồn ta đau thương, lầm lạc!

Công sinh thành phải đặt trước tình yêu!
… Bởi trước mắt cha ta vừa bị nhục
Dù kẻ thù là cha của chính Simen!”
– Thiên nhiên bị hạn chế đưa vào văn học cổ điển vì nó sẽ làm nảy sinh tình
cảm, không có lợi cho lí trí sáng suốt của con người. Ngoại cảnh, do vậy, ít được chú
ý, chỉ được nhắc đến như một cái khung. Văn học cổ điển không miêu tả phong tục tập
quán của thời đại, coi đó chỉ là những giá trị quá độ nhất thời, do đó tính lịch sử và
tính dân tộc của tác phẩm văn học hết sức mờ nhạt. Trong Lecid, chúng ta không hề
thấy có những bức tranh thiên nhiên, khu vườn nhà Simen nơi Rodrige đến chịu tội
không được miêu tả thi vị như khu vườn nơi Romeo và Julliet tình tự trong văn học
Phục hưng trước đây hay khu vườn nơi Cosset và Marius trong văn học lãng mạn sau
này. Phong tục tập quán có lẽ chỉ được biểu hiện qua luật đấu kiếm. Xuyên suốt vở
Horace, Corneille không hề miêu tả ngoại cảnh như thế nào, mà chỉ chú ý đến các
nhân vật của mình. Hay ta có thể nói đúng hơn, đó là ngòi bút của ông chỉ tập trung
vào khai thác cảm xúc và hành động của nhân vật. Nếu có, ngoại cảnh trong tác phẩm
này chỉ là dòng mở đầu chung của toàn vở kịch: “Sự việc xảy ra trong kinh thành
Roma, trong một gian phòng nhà Horace” mà thôi.

– 19 –

– Các nhà văn cổ điển quan niệm phải bắt chước cái tự nhiên thế nào cho “dễ
chịu” và bắt chước những thực tế xấu xa ghê tởm hay kinh khủng phải mực thước, do
đó không nên đưa vào những cảnh khốc liệt và đẫm máu, mà chỉ cần thể hiện một cách
gián tiếp qua sứ giả đưa tin, qua việc để một nhân vật kể lại sự kiện hoặc đội đồng ca
được bố trí sẵn trên sân khấu và sẽ hát để thông tin cho độc giả. Trong chủ nghĩa cổ
điển, các cảnh chiến đấu khốc liệt, đẫm máu cũng không được miêu tả một cách cụ
thể, sinh động mà chỉ được miêu tả lại một cách gián tiếp qua lời của nhân vật. Trận
chiến giữa Don Rodrige và bá tước Don Gomes cũng không được miêu tả trực tiếp.
Cái chết của bá tước được thông báo qua lời của quý tộc Don Alonse. Hay trận chiến

oanh liệt của Le cid và quân Mô cũng là một minh chứng. Quá trình cuộc chiến, kết
quả ra sao không được miêu tả kĩ lưỡng mà chỉ qua lời kể của chàng, bẩm báo lên đức
vua:
“Loang loảng kiếm trần quân ta bốn bề xốc tới
Bị đánh bất ngờ, quân thù rối loạn hoang mang…
Trên bộ, dưới thuyền, bến cảng, sông xanh
Thành bãi sát sinh cho thần chết tung hoành.
Ôi! Biết bao hành động anh hùng, chiến công đẹp đẽ…”
Cuộc giao tranh giữa Don Sanse và Don Rodrige cũng được thuật lại qua lời kể
của kẻ thua trận:
“Người hiệp sĩ anh hào nàng những yêu thương
Tước vũ khí của thần, đã mở lòng độ lượng…”
Trong Horace, có ba cảnh khốc liệt như thế, được miêu tả gián tiếp qua lời của
các nhân vật. Đầu tiên, ta có thể kể đến cảnh dàn trận của quân đội hai bên được kể lại
qua lời của Curiace:
“… Thật không ngờ! Quân đội của hai bên,
Sôi nổi ngang nhau, bừng bừng sức mạnh
Mắt ngó gầm ghè và bước đi kiêu hãnh
Chỉ đợi lệnh truyền là giáp trận vung gươm…”
Cảnh tiếp theo, đó là khi Horace và Curiace đánh nhau sinh tử. Cuộc
chiến này cũng không được trực tiếp đưa vào sân khấu, mà chỉ được kể lại
thông qua lời của nàng Giuli mà thôi:
“Họ vừa bước ra, sẵn sàng trong tư thế giao gươm,
Thì trong hàng ngũ hai bên có những tiếng rì rầm
– 20 –

Khi nhìn thấy những kẻ bạn bè, những bà con thân mến
Vì Tổ quốc xông vào tử chiến.
Kẻ xót thương, kẻ xiết nỗi kinh hoàng,

Kẻ ca ngợi nhiệt tình quyết chiến vô song.
Kẻ tung hô tận trời xanh chỉ kiên cường có một,
Kẻ lại gọi là vô luân bạo ngược.
Tình cảm dù khác nhau mà thống nhất một lời:
Căm phẫn thủ lĩnh mình đã lựa chọn quá sai
Và không chịu nổi cuộc chiến đấu dã man dường ấy.
Họ thét, họ gào, họ xông lên và cuối cùng ngăn cản lại”.
Và:
“Vâng, nhưng rồi cả hai quân lại náo động ồn ào,
Tiếng thét, tiếng gào từ hai phía ngang nhau
Đòi hỏi đánh ngay hoặc tuyển người đánh khác.
Quên cả tôn trọng người chỉ huy đang có mặt,
Quyền họ bị lu mờ, họ nói không ai nghe.
Đến đức vua cũng phải ngạc nhiên đành lại vỗ về.
Người phán: “Bởi ai cũng bừng sôi mỗi người một ý.
Ta hãy xin các thần linh uy nghi đường bệ
Cho biết đổi thay này có hợp ý người không.
Kẻ vô đạo nào dám cả gan chống lại ý thần
Khi vật hi sinh đã bộc lộ cho ta thấy rõ?”
Người im lặng; và sức người có nhiệm màu kì lạ.
Cả sáu chiến binh đành buông vũ khí đợi chờ;
Và tham vọng vinh quang làm mắt họ lòa mờ,
Dẫu mù quáng mà với thần linh vẫn còn tôn trọng.
Lòng hăng hái đang sôi cũng phục tùng lời vua phán:
Do chỗ biết điều hoặc vì trách nhiệm khẩn trương.
Trong cả hai quân đều coi như lệnh chí tôn
Như cùng thừa nhận người là vua của họ,…”
Cho đến cả việc thông báo kết quả cuộc chiến sinh tử vừa diễn ra:
“La Mã khuất Albe và các cậu thua luôn
Hai người chết; riêng chồng bà sống sót”

– 21 –

Tài liệu liên quan

Xem thêm: Các Phương Trình Phản Ứng Của Clo Và Các Hợp Chất Của Clo, Viết Các Phương Trình Điều Chế Nước

*

Lập chương trình quản lý luận văn của khoa tin học kinh tế bằng Visual FoxPro 45 436 0

*

Ôn thi TN – Đề 3(Lý luận văn học) 2 59

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Luận văn