5 Tình Hình Diện Tích Và Sản Lượng Rau Của Việt Nam, Biểu Số: 005

Cong thong tin dien tu Bo ke hoach va dau tu

*

Công khai thông tin

*

Hệ thống thông tin theo dõi, giám sát đầu tư công

*

Ministry of Planning and Investment Portal

*

Press Releases
LibrariesCông khai thông tinHệ thống thông tin theo dõi, giám sát đầu tư côngMinistry of Planning and Investment PortalPress Releases
Trang chủ Phát triển kinh tế – xã hội Ảnh minh họa. Minh Trang (lingocard.vn)

Kết quả sản xuất vụ đông xuân năm 2019 thấp hơn năm 2018 do thời tiết những tháng đầu năm không thuận lợi ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của cây lúa. Tính chung toàn vụ, cả nước gieo cấy được 3,12 triệu ha lúa, tăng 21,8 nghìn ha so với vụ đông xuân năm 2018, chủ yếu do cơ cấu lại mùa vụ gieo trồng; năng suất lúa đạt 65,5 tạ/ha, giảm 0,9 tạ/ha; sản lượng đạt 20,47 triệu tấn, giảm 133 nghìn tấn.

Đang xem: Diện tích và sản lượng rau của việt nam

Vụ lúa hè thu năm 2019 đạt kết quả sản xuất thấp hơn năm 2018 cả về diện tích, năng suất và sản lượng do thời tiết không thuận lợi, chi phí sản xuất tăng cao trong khi giá bán lúa lại thấp nên nông dân không đầu tư gieo trồng. Diện tích gieo trồng lúa hè thu cả nước năm nay đạt 2,01 triệu ha, giảm 43,4 nghìn ha so với vụ hè thu năm 2018; năng suất đạt 54,5 tạ/ha, giảm 0,1 tạ/ha; sản lượng đạt gần 10,95 triệu tấn, giảm 260,4 nghìn tấn. Trong đó, vùng Đồng bằng sông Cửu Long có mức sản lượng đạt 8,68 triệu tấn, giảm 116,6 nghìn tấn so với năm 2018.

Diện tích gieo trồng lúa thu đông đạt 724,2 nghìn ha, giảm 7,9 nghìn ha so với vụ thu đông 2018; năng suất đạt 54,5 tạ/ha, tăng 0,3 tạ/ha; sản lượng đạt 3,95 triệu tấn, giảm 19,4 nghìn tấn. Do năm 2019 lũ về chậm, nước sông đầu nguồn thấp so với các năm 2018 nên có 9,4 nghìn ha lúa thu đông được trồng thêm tại những diện tích bờ bao kiên cố, khép kín nhưng tính chung toàn vụ tổng diện tích gieo trồng thấp hơn cùng kỳ, nguyên nhân chủ yếu do ảnh hưởng của giá lúa vụ hè thu thấp nên người dân chủ động không trồng 12,6 nghìn ha lúa, xới đất đón phù sa chuẩn bị cho sản xuất lúa đông xuân chính vụ đạt hiệu quả hơn; một phần diện tích trồng lúa được chuyển sang trồng các loại cây hằng năm khác và cây lâu năm. Một số địa phương có diện tích gieo cấy và sản lượng giảm nhiều: Cần Thơ giảm 9,9 nghìn ha và giảm 40,3 nghìn tấn; Vĩnh Long giảm 4,6 nghìn ha và giảm 19,1 nghìn tấn.

Kết quả sản xuất lúa mùa năm 2019 tăng về năng suất nhưng do nắng nóng đầu vụ tại các địa phương phía Bắc và chuyển đổi cơ cấu mùa vụ của Cà Mau làm diện tích gieo trồng giảm mạnh nên sản lượng toàn vụ giảm. Diện tích gieo cấy lúa mùa cả nước đạt 1,61 triệu ha, giảm 72,3 nghìn ha so với vụ mùa năm 2018; năng suất đạt 50,2 tạ/ha, tăng 1,1 tạ/ha; sản lượng đạt 8,08 triệu tấn, giảm 184,4 nghìn tấn. Trong đó, các địa phương phía Bắc gieo cấy được 1.070,8 nghìn ha, giảm 33,4 nghìn ha ; năng suất đạt 50,8 tạ/ha, tăng 1,4 tạ/ha; sản lượng đạt 5,44 triệu tấn, giảm 20 nghìn tấn. Các địa phương phía Nam gieo cấy được 540,2 nghìn ha, giảm 38,9 nghìn ha; năng suất đạt 48,9 tạ/ha, tăng 0,4 tạ/ha; sản lượng đạt 2,64 triệu tấn, giảm 164,4 nghìn tấn.

Xem thêm: Chầu Văn Mẫu Đầm Đa (Có Lời Văn Mẫu Đầm Đa ( Hòa Bình ), Lời Bài Hát: Chầu Văn Mẫu Đầm Đa

Kết quả sản xuất hoa màu và một số cây hàng năm: Sản lượng ngô đạt 4,76 triệu tấn, giảm 117,4 nghìn tấn so với năm 2018 do diện tích gieo trồng giảm 42 nghìn ha; khoai lang đạt 1,4 triệu tấn, tăng 27,2 nghìn tấn (diện tích giảm 1,3 nghìn ha); mía đạt 15,27 triệu tấn, giảm 2,7 triệu tấn (diện tích giảm 35,7 nghìn ha); sắn đạt 10,11 triệu tấn, tăng 259 nghìn tấn (diện tích tăng 6,5 nghìn ha); lạc đạt 438,8 nghìn tấn, giảm 18,5 nghìn tấn (diện tích giảm 8,9 nghìn ha); đậu tương đạt 75,9 nghìn tấn, giảm 4,9 nghìn tấn (diện tích giảm 3,8 nghìn ha); sản lượng rau các loại đạt 17,95 triệu tấn, tăng 855,3 nghìn tấn (diện tích tăng 26,1 nghìn ha); sản lượng đậu các loại đạt 161,9 nghìn tấn, tăng 3,5 nghìn tấn (diện tích giảm 5,3 nghìn ha).

Diện tích trồng cây lâu năm năm 2019 ước tính đạt 3.537,9 nghìn ha, tăng 1,2% so với năm 2018, bao gồm nhóm cây công nghiệp đạt 2.192,4 nghìn ha, giảm 0,9%; nhóm cây ăn quả đạt 1.049,6 nghìn ha, tăng 5,7%; nhóm cây lấy dầu đạt 178 nghìn ha, tăng 1,4%; nhóm cây gia vị, dược liệu đạt 49,8 nghìn ha, tăng 3,6%; nhóm cây lâu năm khác đạt 68,1 nghìn ha, tăng 0,9%. Trong nhóm cây công nghiệp, diện tích cao su đạt 946,2 nghìn ha, giảm 1,6% so với năm 2018, sản lượng cả năm đạt 1.173,1 nghìn tấn, tăng 3,1%; hồ tiêu diện tích đạt 137,7 nghìn ha, giảm 6,6%, sản lượng đạt 263,5 nghìn tấn, tăng 0,3%; cà phê diện tích đạt 688,3 nghìn ha, tăng 1,1%, sản lượng đạt 1.657 nghìn tấn, tăng 2,5%; điều diện tích đạt 297,2 nghìn ha, giảm 0,8%, sản lượng đạt 286,3 nghìn tấn, tăng 7,5%; chè diện tích đạt 123 nghìn ha, tương đương năm 2018, sản lượng chè búp đạt 1.019,9 nghìn tấn, tăng 2,6%. Nhóm cây ăn quả đạt sản lượng thu hoạch khá chủ yếu ở nhóm cây có múi, xoài và thanh long do có thị trường tiêu thụ ổn định. Sản lượng cam đạt 960,9 nghìn tấn, tăng 12,4% so với năm 2018; bưởi đạt 779,3 nghìn tấn, tăng 18,2%; xoài đạt 814,8 nghìn tấn, tăng 2,9%; thanh long đạt 1.242,5 nghìn tấn, tăng 15%. Riêng nhãn và vải sản lượng giảm so với năm 2018 nhưng giá bán tăng do người dân tập trung sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP để nâng cao giá trị, tăng hiệu quả kinh tế: sản lượng vải đạt 272 nghìn tấn, giảm 30,1%; nhãn đạt 507,9 nghìn tấn, giảm 6,6%.

Chăn nuôi trâu, bò trên cả nước nhìn chung ổn định, không có dịch bệnh lớn xảy ra. Tổng đàn trâu cả nước giảm do hiệu quả kinh tế không cao và môi trường chăn thả bị thu hẹp. Đàn bò phát triển khá do có thị trường tiêu thụ tốt, giá bán thịt bò hơi ở mức tốt, người chăn nuôi có lãi. Chăn nuôi bò sữa phát triển tốt. Tính đến tháng 12/2019, đàn trâu cả nước giảm 3,1% so với cùng thời điểm năm 2018; đàn bò tăng 2,4%. Sản lượng thịt hơi các loại năm nay đạt khá, trong đó sản lượng thịt trâu đạt 95,1 nghìn tấn, tăng 3,2% so với năm 2018 (quý IV đạt 24,5 nghìn tấn, tăng 3,5%); sản lượng thịt bò đạt 349,2 nghìn tấn, tăng 4,4% (quý IV đạt 84,3 nghìn tấn, tăng 5%); sản lượng sữa bò đạt 1.029,6 nghìn tấn, tăng 10% (quý IV đạt 260,9 nghìn tấn, tăng 12,1%).

Xem thêm: Cách Tính Spread – Chênh Lệch Spread Là Gì

Chăn nuôi gia cầm phát triển tốt do có thị trường tiêu thụ, không có dịch bệnh lớn xảy ra, người chăn nuôi yên tâm mở rộng quy mô đàn, đặc biệt khi dịch bệnh ở lợn diễn biến phức tạp, nhu cầu tiêu thụ thịt và trứng gia cầm tăng mạnh do người dân chuyển sang sử dụng thay thế thịt lợn. Tổng đàn gia cầm của cả nước tháng 12 tăng 14,2% so với cùng thời điểm năm 2018; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng cả năm ước tính đạt 1.278,6 nghìn tấn, tăng 16,5% so với năm 2018 (quý IV đạt 340 nghìn tấn, tăng 19,4%); sản lượng trứng gia cầm cả năm đạt 13,3 tỷ quả, tăng 14% (quý IV ước đạt 3,5 tỷ quả, tăng 16,9%).

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Diện tích