Cách Tính Các Năm Nhuận – Cách Tính Năm Nhuận Âm Lịch Và Tháng Nhuận

Việc tính năm nhuận Dương lịch (DL) và năm nhuận Âm lịch (AL) thì không có gì phức tạp lắm, nhưng tính tháng nhuận của năm AL thì rất phức tạp

*

*

Việc tính năm nhuận Dương lịch (DL) và năm nhuận Âm lịch (AL) thì không có gì phức tạp lắm, nhưng tính tháng nhuận của năm AL thì rất phức tạp (nó không cố định tháng nhuận như năm DL là tháng 2 thêm 1 ngày = 29 ngày).

Tháng nhuận AL được tính theo phương thức kết hợp nhiều yếu tố liên quan đến các “tiết” và “khí” trong các tháng của năm. Trong bài này chỉ đề cập tới cách tính năm nhuận DL và AL như sau:

Năm nhuận dương lịch

Theo lịch đã in, năm 2014 là năm nhuận âm lịch hai tháng Chín. Việc tính năm nhuận trong dương lịch và âm lịch khác nhau. Dương lịch hiện tại mà chúng ta đang dùng là lịch của người La Mã cổ đại.

Đang xem: Cách tính các năm nhuận

Lúc đó, người La Mã không hề biết là Trái Đất quanh xung quanh Mặt trời và năm của họ chỉ có 304 ngày (được chia thành 10 tháng chứ không phải 12 tháng).

Khi nhận ra lịch của họ có thiếu sót (thiếu tận 60 ngày), hoàng đế Pompilius đã thêm hai tháng có tên là January và February.

Cho tới lúc này, lịch của Pompilius đã tương đối chính xác (có 365 ngày) và chỉ thiếu mất 1/4 ngày một năm. Cho tới khi Julius Caesar lên nắm quyền thì lịch đã bị lệch mất 80 ngày so với mặt trời (lệch mùa) và nếu không có sự sửa đổi ngay lập tức thì lịch sẽ còn lệch hơn nữa trong tương lai.

Do vậy, nhà bác học có tên là Sosigenes ở Ai Cập đã xác định lại chính xác phần thiếu của lịch hiện tại (1/4 ngày cho mỗi năm) và đồng thời xếp lại thứ tự tháng.

Nhà bác học này cũng là người đặt ra quy định tháng hai có 28 ngày và cứ 4 năm một lần thì tháng 2 sẽ lại có 29 ngày để bù cho 1/4 ngày bị dư ra của một năm.

Ngày nhuận này được đặt vào năm chia hết cho 4. Sau này, lịch này lại được sửa đổi thêm một lần nữa khi quy định rằng vào các năm chia hết cho 100 (đương nhiên chia hết cho 100 sẽ chia hết cho 4) nhưng không chia hết cho 400 thì không phải năm nhuận.

Muốn biết năm nào của Dương lịch là năm nhuận thì ta chỉ cần lấy số biểu của năm đó đem chia cho 4 mà vừa đủ thì năm đó là năm Dương lịch có nhuận tháng 2 thêm 1 ngày thành 29 ngày. Chẳng hạn: Năm 2012 là năm nhuận dương lịch vì 2012 chia vừa đủ cho 4.

Với những năm tròn Thế kỷ (tức số biểu của năm đó có 2 con số không ở cuối thì ta phải lấy 2 con số đầu của số biểu để chia cho 4. Nếu chia vừa đủ là năm đó có nhuận.

Năm nhuận âm lịch

Năm nhuận trong âm lịch quy tắc khác với dương lịch. Âm lịch tính thời gian theo mặt trăng. Một tháng mặt trăng trung bình có 29,5 ngày. Một năm âm lịch có 354 ngày, ngắn hơn năm dương lịch 11 ngày. Cứ 3 năm lại ngắn hơn 33 ngày (hơn 1 tháng).

Để âm lịch vừa chỉ được tuần trăng, vừa không sai lệch nhiều với thời tiết 4 mùa, cứ 3 năm âm lịch người ta phải cho thêm một tháng nhuận để năm âm lịch và dương lịch không sai nhau nhiều.

Tuy nhiên, năm âm lịch vẫn chậm hơn so với năm dương lịch. Người ta khắc phục tình trạng trên bằng cách cứ 19 năm lại có một lần cách 2 năm thêm một tháng nhuận.

Trong 19 năm dương lịch có 228 tháng dương lịch, tương ứng với 235 tháng âm lịch, thừa 7 tháng so với năm dương lịch, gọi là 7 tháng nhuận. Bảy tháng trước đó được quy ước vào các năm thứ 3, 6, 9 hoặc 8, 11, 14, 17, 19 của chu kỳ 19 năm.

Với năm âm lịch, muốn tính năm nhuận lấy năm dương lịch tương ứng chia cho 19, nếu số dư là một trong các số: 0, 3, 6, 9 hoặc 11, 14, 17 thì năm âm lịch đó có tháng nhuận.

Xem thêm: Cách Tính Hưởng Chế Độ Thai Lưu ? Bị Sảy Thai Có Được Hưởng Thai Sản ?

Còn năm đó nhuận vào tháng nào được các nhà lịch pháp phải công phu, kinh nghiệm tính mới chính xác và lập thành bảng để tuân theo dựa vào nhiều yếu tố khác. Một năm có thể nhuận cả dương lịch lẫn âm lịch.

Ví dụ: Năm 2014 chia cho 19 được chẵn 106 nên năm này là năm nhuận âm lịch vào tháng Chín, năm 2017 nhuận hai tháng 6, năm 2020 nhuận hai tháng Tư…

Năm nhuận chỉ là một thủ pháp của các nhà làm lịch nhằm làm cho năm âm lịch và dương lịch không sai lệch nhau nhiều, không có hàm ý gì về thời tiết, khí hậu.

Cần phân biệt năm nhuận dương lịch và năm nhuận âm lịch. 

Có năm nhuận dương lịch nhưng không nhuận âm lịch (vd năm 2008) Có năm nhuận âm lịch nhưng không nhuận dương lịch (vd năm 2014) Có năm nhuận cả dương lịch và âm lịch (vd năm 2012) Trong DƯƠNG LỊCH : Năm nhuận là năm chia hết cho 4, nhưng không chia hết cho 100 (trừ những năm chia hết cho 400 cũng là năm nhuận) 

Ví dụ các năm 1964; 1980; 1992; 1600; 2000 là các năm nhuận (dương lich) Các năm 1700; 1800; 1900; 2100 ko phải năm nhuận (dương lịch) Trong ÂM LỊCH : Năm nhuận là năm chia cho 19 có số dư là 0; 3; 6; 8; 11; 14; 17 

Nghĩa là trong 19 năm liên tiếp có 7 năm nhuận, là các năm thứ 3; 6; 8; 11; 14; 17 và 19.Quy tắc này cũng có khi sai nhưng không nhiều (có khi năm thứ 8 ko nhuận mà năm thứ 9 mới nhuận), nhưng nói chung trong 19 năm phải có 7 năm nhuận. Ví dụ các năm 1900; 1917; 1941; 1990; 2012 là các năm nhuận (âm lịch) Năm nhuận dương lịch có 366 ngày. 

Năm nhuận âm lịch có 13 tháng (383 hoặc 384 ngày)

Tính âm lịch TAM NGUYÊN CỬU VẬN

Người Trung Quốc cổ đại cách đây hơn mấy ngàn năm đã có kiến thức đáng kinh ngạc về lịch. Theo văn bản cổ nhất ở Viễn Đông bàn đến lịch pháp là chương Nghiêu điển mở đầu Kinh thư, lịch Trung Quốc hàm ẩn một triết lý nhân sinh vô cùng sâu sắc. Ta biết quỹ đạo vận chuyển của mặt trời trên thiên cầu gọi là “Hoàng đạo”. Quỹ đạo vận chuyển của mặt trăng xung quanh trái đất gọi là “Bạch đạo”

Dùng mặt trăng để tính tháng thì rất tiện, vì tháng biểu hiện theo tuần trăng rất rõ ràng, nhưng dùng để tính năm thì lại không chính xác, thời tiết bị sai lệch vì cứ 3 năm lại có một tháng nhuận, 5 năm có 2 tháng nhuận trong 19 năm có 7 tháng nhuận. Như vậy chu kì của năm nhuận nảy sinh ra nhiều điều rắc rối. Vậy tính sao đây?

Căn cứ theo “Lục Thập Giáp Tý can chi” để tính lịch. Một chu kỳ từ Giáp Tý trở lại Giáp Tý gọi là một hoa giáp, mỗi hoa giáp gồm 60 năm, cứ 60 năm gọi là một nguyên, cứ 3 nguyên gọi là chính nguyên có (0 năm x 3 = 180 năm.)

Trong mỗi chính nguyên (180 năm) có 3 đơn nguyên là: Thượng nguyên, Trung nguyên, và Hạ nguyên. Mỗi đơn nguyên có 3 vận, mỗi vận là 20 năm.

Cứ 3 chính nguyên (180 năm x 3 = 540 năm) là một đại nguyên. Có chính nguyên đầu, chính nguyên giữa và chính nguyên cuối. Hiện tại chúng ta đang ở trong chính nguyên cuối cùng (từ năm 1864 Giáp Tý đến năm 2043 Quý Hợi)

BẢNG TAM NGUYÊN CỬU VẬN

*

Căn cứ qua Tam nguyên cửu vận ta xác định được các năm nhuận của âm lịch như sau:

Xem bảng thống kê các năm nhuận sau:

*

Và tiếp đến là chính nguyên đầu của đại nguyên sau (kể từ năm 2044) đến năm 2224). Các năm nhuận được tính như trên.

Qua bảng thống kê: Trong chính nguyên (180 năm) có 67 năm nhuận ÂL, trong đó có 19 lần cách 2 năm có năm nhuận. Số còn lại cách 3 năm mới có năm nhuận.

Số năm nhuận ÂL được tính như sau:

Cứ 3 lần: cách 3 năm có năm nhuận.

Đến 1 lần: cách 2 năm có năm nhuận.

Rồi 2 lần: cách 3 năm có năm nhuận.

Đến 1 lần: cách 2 năm có năm nhuận.

Liên tục như vậy 6 lần: ( 3-2 ) Ở thượng nguyên và Trung nguyên.

Đến Hạ nguyên – nghịch đảo một lần: (2-3)

Rồi lại trở về 2 lần: ( 3-2 ) Cuối cùng cách 3 năm có năm nhuận 3 lần, rồi hết.

Qua chính nguyên kế tiếp được tính y như chính nguyên trên.

Xem thêm: Cách Sử Dụng Máy Tính Nhanh Hơn Mà Bạn Chưa Biết, Cách Để Sử Dụng Máy Vi Tính (Kèm Ảnh)

* Muốn tính năm nào là năm nhuận của ÂL, ta lấy biểu số của năm Dương lịch đem chia cho 19 nếu vừa hết không có số dư hoặc số dư là 3, 6, 9, 11, 14 và 17 thì năm đó là năm nhuận của âm lịch. Ví dụ: năm 1919: 19 vừa hết không có số dư

1993: 19 còn dư 17

2014: 19 còn dư 14

 2020: 19 còn dư 6 

Vậy các năm trên là năm nhuận của âm lịch

Tháng giêng (01) không bao giờ có là tháng nhuận. Riêng tháng 9, 10, 11 trong chính nguyên có duy nhất 1 tháng nhuận mà đều nằm ở Hạ nguyên. Điểm khác biệt cơ bản giữa dương lịch và âm lịch là: Trong âm lịch tháng đủ có 30 ngày, tháng thiếu chỉ có 29 ngày.

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Cách tính